Bạn đang xem bài viết Cầu Treo Kon Klor Kon Tum được cập nhật mới nhất trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Chuyên mục: Hình ảnh Kon Tum
Giới thiệu: Cầu treo Kon Klor thuộc địa phận làng Kon Klor, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Là chiếc cầu dây văng to đẹp nhất khu vực Tây Nguyên, nối liền hai bờ của dòng sông Đăk Bla. Cầu có chiều dài 292m, rộng 4,5m, thiết kế và khởi công xây dựng vào ngày 3/2/1993 và hoàn thành ngày 1/5/1994, có màu vàng cam thật nổi bật trong cái nắng vàng oi ả của vùng đất Tây Nguyên. Cầu treo Kon Klor Kon Tum – Cầu dây văng lớn nhất Tây Nguyên Việt Nam, Điểm du lịch chech in chụp ảnh cưới đẹp tại Kon Tum
Địa chỉ cầu treo Konklor: Đường Bắc Kạn, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum (Cách đó không xa là nhà rông Kon Klor cùng tên với cầu treo). Đây là điểm thu hút khách du lịch khi đến Kontum. Nơi đây là điểm thu hút khách tham quan du lịch chụp ảnh cưới, chech in khi tới Kon Tum.
Bao quanh Kon Klor là những ngọn núi được bao phủ bởi những nương dâu xanh rì. Cầu Kon Klor đã bắt nhịp đôi bờ sông đưa mọi người đến gần nhau hơn, chiếc cầu được đưa vào sử dụng thì cũng chấm dứt luôn những chuyến đò ngang bằng xuồng độc mộc đã từng bao năm.
Đi trên cầu Kon Klor du khách có thể thấy dòng sông Đắk Bla đang cuồn cuộn từng dòng hùng vĩ.
Làng du lịch văn hóa Kon K’tu có nhà rông cao, đẹp, bạn sẽ được thỏa mãn nhu cầu ngủ lại qua đêm, tham gia các sinh hoạt giao lưu văn hóa, uống rượu cần, nghe kể Khan bên bếp lửa bập bùng cùng người dân bản địa. Khi từ biệt làng trở về, chắc chắn bạn sẽ thấy hài lòng với những món quà lưu niệm do bàn tay khéo léo của người dân ờ đây làm bằng vật liệu từ núi rừng.
Công trình nối liền hai bờ của dòng sông Đăk Bla, một dòng sông gắn với nhiều huyền thoại của đồng bào dân tộc Ba Na trong vùng.
Bình yên chiều về trên cầu treo Kon Klor
Cây cầu được xây dựng hoàn toàn bằng sắt thép rất kiên cố và vững chắc
Trước khi cầu treo Kon Klor được xây dựng, trong hàng thế kỷ qua, người dân đã phải qua sông bằng những chuyến đò ngang.
Cầu treo Kon Klor bắc ngang qua dòng sông Đăk Bla là cầu treo Kon K’lor, cây cầu treo dây văng lớn nhất tỉnh Kon Tum. Cầu treo giúp trung chuyển, giao thương đi lại của bà con các dân tộc vào khu vực thành phố. Vào mùa khô, bạn có thể đi xuống lòng sông và ngắm cầu treo Kon K’lor từ dưới.
Cầu treo Kon Klor cũng tạo nên một điểm nhấn cảnh quan mới rất hấp dẫn cho phố núi Kon Tum.
Du khách trên cầu treo Kon Klor tp Kon Tum
Cầu treo treo Kon Klor là địa điểm đẹp nổi tiếng Kon Tum thu hút khách du lịch trong và ngoài nước mỗi khi đến Tây Nguyên
Việc xây dựng cây cầu đã cải thiện rõ rệt cuộc sống của dân cư và làm thay đổi toàn diện bộ mặt kinh tế – xã hội của Kon Tum.
Trạm khí tượng thủy văn Kon Tum bên cầu treo Kon Klor
Cáp thép nâng nhịp cầu
Trên cầu nhìn xuống sông Đắk Bla
Lịch sử, thông số kỹ thuật: Dài 292 m, rộng 4.5 m, đơn vị thi công: Công ty 525 tổng cty công trình 5, khảo sát thiết kế: Viện khoa học kỹ thuật bộ giao thông vận tải, khởi công 3-2-1993, hoàn thành 1–5-1994
khách du lịch Châu Âu đến Việt Nam
Kon Tum Đẩy Mạnh Chương Trình Kích Cầu Du Lịch
Đây là hoạt động nhằm cụ thể hóa chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về chương trình “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam” và triển khai chương trình kích cầu du lịch.
Liên hoan sắc màu thổ cẩm, ra mắt Làng du lịch cộng đồng Kon Kơ Tu là hoạt động thiết thực, giới thiệu điểm đến du lịch; tôn vinh, quảng bá hình ảnh du lịch Kon Tum đến bạn bè trong nước và quốc tế về tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch và các giá trị di sản văn hóa các dân tộc của tỉnh Kon Tum nói chung, thành phố Kon Tum nói riêng. Qua đó, góp phần gìn giữ và phát huy, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Nằm bên dòng sông Đăk Bla, làng Kon Kơ Tu, xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum còn giữ được nét kiến trúc mang đặc trưng riêng của người Bahnar. Tỉ lệ nhà sàn truyền thống của làng chiếm trên 50%, được xây dựng xung quanh nhà Rông văn hóa, nhà nguyện, cùng quay mặt về hướng Nam.
Đến đây, du khách không chỉ được hòa mình vào đời sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân, mà còn được làm quen với dân ca, nhạc cụ truyền thống qua giao lưu cồng chiêng, múa xoang và một số lễ hội khác. Đồng thời, được thưởng thức các món ăn mang phong cách riêng đặc trưng của người đồng bào dân tộc thiểu số bản địa như cơm lam, gà nướng, cá sông nướng và các loại rau, củ, quả rừng,…
Chị Lê Thị Kim Duyên, du khách đến từ thành phố Kon Tum cho biết, tham dự Lễ ra mắt làng du lịch cộng đồng Kon Kơ Tu và Liên hoan sắc màu thổ cẩm thành phố Kon Tum là lần thứ hai chị đến với làng Kon Kơ Tu. Ngoài các món ăn đặc sắc cũng như các nét đẹp từ lễ hội văn hóa truyền thống, chị và người thân còn được chiêm ngưỡng các sản phẩm thủ công mỹ nghệ do chính bàn tay khéo léo của các nghệ nhân nơi đây làm ra, như thổ cẩm, xà phòng, gùi tre…
Theo số liệu thống kê, mỗi năm làng Kon Kơ Tu đón từ 700 – 900 lượt khách du lịch, trong đó khách nước ngoài khoảng 300 lượt, tập trung ở độ tuổi từ 20 – 50. So với các năm trước, tỉ lệ khách đến với làng du lịch cộng đồng Kon Kơ Tu 6 tháng đầu năm 2020 tăng từ 10 – 20%.
Ông A Ben, làng Kon Kơ Tu là một trong những nghệ nhân tham gia đón đoàn khách du lịch đến với làng Kon Kơ Tu bày tỏ niềm vui mừng khi hàng năm, số du khách đến với làng lại tăng lên. Nhờ đó, người dân trong làng có thêm thu nhập, cải thiện đời sống, phát triển kinh tế – xã hội.
“Dân làng chúng tôi cũng luôn ý thức được việc bảo vệ và truyền thụ các giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ sau. Để khi du khách đến đây sẽ được đắm chìm trong một không gian văn hóa đậm chất dân tộc của người Bahnar, và nhớ mãi những trải nghiệm thú vị và đặc trưng riêng mà làng Kon Kơ Tu mang lại”, ông A Ben chia sẻ.
Trong khi đó, Nhà nghiên cứu Linh Nga Niê Kdam cho rằng, Kon Tum là tỉnh có rất nhiều thuận lợi về sự đa dạng văn hóa của bà con các dân tộc tại chỗ, bởi nơi đây có tới 8 tộc người, mỗi tộc người có một nền văn minh, văn hóa riêng biệt. Dù vậy, từ lâu nay, chính quyền địa phương vẫn chưa thực sự chú trọng việc phát huy các giá trị văn hóa ấy, mà làng Kon Kơ Tu chính là một ví dụ cụ thể.
“Theo tiếng Bahnar, K’Tu (phát âm: Kơ Tu) có nghĩa là làng cũ, làng của người xưa, là một ngôi làng mà còn rất nhiều những nhà Rông truyền thống và nếp sống, sinh hoạt còn nhiều nét đẹp. Nếu như có thể phát triển du lịch cộng đồng ở đây thì sẽ phát triển được giá trị văn hóa của người Banar. Đặc biệt, nếu tất cả những địa điểm khác của Kon Tum cũng phát huy được giá trị văn hóa của các dân tộc bản địa như J’Rai, K’Dong, H’rê, Giẻ Triêng, Brâu… thì đó sẽ là điều vô cùng tốt đẹp trong việc gìn giữ kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”, Nhà nghiên cứu Linh Nga Niê Kdam phân tích.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum Trần Thị Nga cho biết, thời gian qua, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng gặp nhiều khó khăn. Trong đó, việc thu hút khách du lịch, nhất là khách quốc tế đến địa phương không được như mong đợi, khi lượng khách chỉ đạt gần 64% so với cùng kỳ năm 2019. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân làm công tác du lịch, thu nhập thấp, không có điều kiện để đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất làm du lịch cộng đồng. Dù vậy, với nỗ lực của tỉnh Kon Tum trong việc quảng bá hình ảnh; đầu tư, xây dựng, sửa chữa một số hạng mục công trình; tăng cường liên kết hợp tác, phát triển sản phẩm du lịch,… tỉnh đã tạo được “đòn bẩy” để khôi phục và phát huy thế mạnh trong phát triển du lịch, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Bà Trần Thị Nga đề nghị, UBND thành phố Kon Tum và các địa phương trong tỉnh cần đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng về chương trình “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam” và chương trình kích cầu du lịch tỉnh Kon Tum năm 2020. Đồng thời, tỉnh tiếp tục phát huy các điểm du lịch, đầu tư thành những điểm đến lý tưởng, thu hút khách tham quan và thưởng ngoạn. Đặc biệt, công tác bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc cần được quan tâm; rà soát các điểm du lịch, làng du lịch cộng đồng để đề xuất với cơ quan chức năng công nhận các điểm du lịch…
Kon Tum Có Gì? 8+ Địa Điểm Du Lịch Kon Tum Nổi Tiếng
Nhà thờ gỗ ở Kon Tum khác với những nhà thờ khác ở mọi nơi trên Việt Nam, không theo kiến trúc Gothic mà lại theo kiến trúc Roman độc đáo.
Điểm hấp dẫn của nhà thờ là nó nằm sừng sững giữa mây trời cao nguyên Kon Tum, giữa rừng xanh bạt ngàn nắng gió và mang một vẻ đẹp ấn tượng đến lạ lùng.
Nhà thờ được làm hoàn toàn bằng gỗ cà chít, xung quanh là những bức tường được làm bằng đất trộn rơm. Với sự khéo léo, tỉ mỉ, những người nghệ nhân đã tạo nên những hoa văn trang trí với đường nét mạnh mẽ, phóng khoáng mang đậm nét văn hoá của đồng bào Tây Nguyên.
Măng Đen là một địa danh “Đà Lạt thứ hai của Việt Nam” bởi nơi đây có nhiều hồ, nhiều thác nước, có cả rừng nguyên sinh và không khí lại trong lành, mát mẻ quanh năm.
Ở độ cao hơn 1000m so với mực nước biển, không khí ở Măng Đen lúc nào cũng se lạnh và mát cả vào những đợt mùa hè. Chính vì thế, nơi đây là “địa chỉ vàng” để tránh nóng trong những ngày Tây Nguyên oi bức.
Thác Pa Sỹ là một khu du lịch sinh thái, nằm trên địa phận của người Rơ Mâm, thuộc làng Kon Tu Rằng, xã Măng Cành – huyện Kon Plong – tỉnh Kon Tum.
Cũng giống như Măng Đen, ngoài ngọn thác quanh năm cuộn chảy thì nơi đây cũng có những cánh rừng thông nguyên sinh và nhiều thác hồ khác. Thêm vào đó, khí hậu cũng hài hòa, mát mẻ và trong lành quanh năm.
KON TUM CÓ GÌ? – NGÃ BA ĐÔNG DƯƠNG
Đây là nơi biên giới của 3 nước Đông Dương: Việt Nam – Lào – Campuchia – nơi được mệnh danh:” Một tiếng gà gấy, 3 nước đều nghe thấy”.
Để đến được nơi đây, bạn sẽ phải vượt qua một hành trình gian nan và thử thách với những cung đường quanh co và ngoằn ngoèo vô cùng.
KON TUM CÓ GÌ? – VƯỜN QUỐC GIA CHƯ MOM RAY
Đây là vườn quốc gia thuộc địa phận của 2 huyện Ngọc Hồi và Sa Thầy, thuộc phía Tây Kon Tum và phía Bắc Tây Nguyên.
1.500 loài thực vật
131 loài thực vật quý hiếm
Một số loài có nguy cơ tuyệt chủng như phong lan, ngành hạt trần,…
KON TUM CÓ GÌ? – SÔNG ĐẮK BLA
Người ta nói: Không có dòng sông Đắk Bla này thì không có Kon Tum như ngày hôm nay – chính vì thế đây là con sông mang ỹ nghĩa biểu tượng về cả lịch sử và địa lý.
KON TUM CÓ GÌ? – TÒA GIÁM MỤC KON TUM
Đây là tòa giám mục kết hợp giữa cổ kính và hiện đại, giữa kiến trúc của người dân tộc bản địa và kiến trúc phương Tây hòa quyện. Nhìn tòa giám mục, không ai nghĩ nó được xây dựng từ năm 1935.
Ở đây, có một căn nhà truyền thống, người dân gọi là bảo tàng về nông cụ, vật dụng sinh hoạt từ bao năm của người dân bản.
KON TUM CÓ GÌ? – CẦU TREO KON KLOR
Đây là cây cầu treo nổi tiếng của Kon Tum, bắc qua hai bờ của sông Đắk Bla huyền thoại. Với thiết kế độc đáo, chắc chắn nhưng cũng có phần dập dềnh và thách thức những ai ưa khám phá.
Từ trên cây cầu này, phóng tầm mắt ngắm nhìn không gian làng mạc, đồng lúa, ruộng ngô, bãi mía xung quanh cùng với dòng sông mải miết chảy ngay dưới chân cầu, du khách sẽ cảm thấy tâm hồn mình như thoáng đạt hơn.
Đó là thiên đường của cà phê, của vườn chuối và những nét sinh hoạt chìm trong cảnh vật thiên nhiên hoang sơ chưa được khai phá.
KON TUM CÓ GÌ? – NHÀ RÔNG KON K’LOR
Nhà rông này là biểu tượng cho sự đoàn kết và sức mạnh cộng đồng của người dân Kon Tum. Nhà có chiều dài hơn 17m, chiều rộng gần 7m và cao tới 22m.
Du Lịch Bụi Kon Tum
Tỉnh Kon Tum thuộc khu vực Tây Nguyên. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía tây giáp Attapeu (Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào) và với tỉnh Ratanakiri, Campuchia. ỉnh lỵ của Kon Tum hiện nay là thành phố Kon Tum cách Quy Nhơn 215 km về phía tây, cách thành phố Hồ Chí Minh 600 km về phía bắc.
Mã vùng điện thoại: 060
Biển số xe: 82
Tổ chức hành chính: Tỉnh Kon Tum có 9 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố (thành phố Kon Tum) và 8 huyện (Huyện Đắk Glei, Huyện Đắk Hà, Huyện Đắk Tô, Huyện Kon Plông, Huyện Kon Rẫy, Huyện Ngọc Hồi, Huyện Sa Thầy, Huyện Tu Mơ Rông).
Khí hậu: Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 22 – 230C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày 8 – 90C. Kon Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Hàng năm, lượng mưa trung bình khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260 mm, năm thấp nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô, gió chủ yếu theo hướng đông bắc; mùa mưa, gió chủ yếu theo hướng tây nam. Độ ẩm trung bình hàng năm dao động trong khoảng 78 – 87%. Độ ẩm không khí tháng cao nhất là tháng 8 – 9 (khoảng 90%), tháng thấp nhất là tháng 3 (khoảng 66%).
Diện tích: 9.689,6 km²
Dân số: Dân số của tỉnh Kon Tum năm 2011 là 453.200 người. Mật độ: 47 người/km².
Thành phân dân tộc: Trên địa bàn Kon Tum có 35 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm 46,4% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Xơ Đăng chiếm 25,1% ; người Ba Na 12,0% ; người Giẻ Triêng 8,1% ; người Gia Rai 5,1%…
Tên gọi Theo truyền thuyết của dân tộc Bana, Kon Tum ban đầu chỉ là một làng của người Bana. Thuở ấy, vùng đồng bào dân tộc Bana (nay thuộc thành phố Kon Tum) có làng người địa phương ở gần bên dòng sông Đăkbla với tên gọi Kon Trang – OR. Lúc ấy, làng Kon Trang – OR rất thịnh vượng với dân số khá đông. Bấy giờ, giữa các làng luôn gây chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ. Hai con trai của Ja Xi – một trong số những người đứng đầu làng Kon Trang – OR tên là Jơ Rông và Uông không thích cảnh chiến tranh đã làm nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dòng Đăkbla. Vùng đất này rất thuận lợi cho phương thức sống định cư, nên dần dần có nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông, lập thành làng mới có tên gọi là Kon Tum. Từ đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người Bana, cạnh dòng Đăkbla, nơi có nhiều hồ nước trũng. Theo tiếng Kinh, Kon Tum có nghĩa là Làng Hồ (Kon là làng, Tum là hồ, ao, bàu nước,…).
Lịch sử Kon Tum thuở xưa còn rất hoang vắng, người thưa, đất rộng. Các dân tộc bản địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ – Triêng, Brâu, Rơ Măm. Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau. Nét đặc biệt trong thiết chế xã hội cổ truyền của các dân tộc ở tỉnh Kon Tum là tổ chức xã hội duy nhất chỉ có làng. Làng được xem như đơn vị hành chính mang tính bao quát và cụ thể, chi phối mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Mỗi làng mang tính độc lập riêng biệt, do một chủ làng là người có uy tín nhất trong làng đứng đầu. Trong giai đoạn khởi nghĩa Tây Sơn (1771 – 1786), ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã xây dựng mối quan hệ đoàn kết với các dân tộc vùng này. Năm 1840, dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình Huế lập Bok Seam – một người Bana làm quan cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng thời cho phép người Kinh và người các dân tộc được phép tự do quan hệ mua bán, trao đổi. Từ đây, những lái buôn người Kinh bắt đầu đến với Tây Nguyên để mua bán, trao đổi hàng hóa. Trong thời gian này, người Pháp cũng tìm đường đến Kon Tum để truyền đạo. Trong giai đoạn 1841 – 1850, thực dân Pháp đã đặt được cơ sở Thiên chúa giáo đầu tiên ở Kon Tum. Năm 1867, thực dân Pháp bắt đầu tấn công xâm lược Kon Tum – Tây Nguyên. Bằng những thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ các dân tộc trong vùng, thực dân Pháp đã thôn tính Kon Tum và Tây Nguyên. Năm 1892, thực dân Pháp đặt tại Kon Tum một tòa đại lý hành chính đầu tiên do một cố đạo người Pháp là Vialleton, còn gọi là cha Truyền cai quản. Ngày 4-7-1904, thực dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, bao gồm hai tòa đại lý hành chính: một tòa ở Kon Tum (trước đó thuộc tỉnh Bình Định) và một tòa ở Cheo Reo (trước đó thuộc tỉnh Phú Yên). Ngày 25-4-1907, thực dân Pháp chính thức bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der. Toàn bộ đất đai của tỉnh Plei Ku Der gồm hai tòa đại lý hành chính Kon Tum và Cheo Reo được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình Định và Phú Yên như trước đó. Ngày 9-2-1913, thực dân Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, bao gồm đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định, đại lý hành chính Cheo Reo tách ra từ Phú Yên, đại lý hành chính Buôn Ma Thuột (Buôn Ma Thuột trước đó là một tỉnh riêng, nhưng đến năm 1913 giảm từ tỉnh xuống thành đại lý hành chính, sáp nhập vào tỉnh Kon Tum). Năm 1917, thực dân Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê, gồm huyện Tân An và khu vực người dân tộc thiểu số đặt dưới quyền cai trị của công sứ tỉnh Kon Tum. Ngày 2-7-1923, đại lý Buôn Ma Thuột được tách khỏi tỉnh Kon Tum để thành lập tỉnh Đắk Lắk. Ngày 3-12-1929, thành lập thành phố Kon Tum (thực tế lúc đó chỉ là thị trấn, gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc thiểu số phụ cận). Ngày 25-5-1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum, thành lập tỉnh Pleiku (nay thuộc tỉnh Gia Lai). Đến ngày 9-8-1943, đại lý hành chính An Khê được tách khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào tỉnh Pleiku. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ chỉ còn lại tổng Tân Hương và toàn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tổng Tân Hương là tên gọi tiền thân của thành phố Kon Tum hiện nay. Tổng Tân Hương là nơi hội tụ của các làng người Kinh lên lập nghiệp tại Kon Tum. Theo thứ tự, các làng của tổng Tân Hương được thành lập theo thời gian và tên gọi như sau: Tân Hương (năm 1874); Phương Nghĩa (năm 1882); Phương Quý (năm 1887); Phương Hòa (năm 1892); Trung Lương (năm 1914); Phụng Sơn (năm 1924); Ngô Thạnh (năm 1925); Ngô Trang (năm 1925); Phước Cần (năm 1927); Lương Khế (năm1927). Ngày 3-2-1929, theo nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương được lập thành thị trấn Kon Tum, từ đó thị trấn Kon Tum trở thành trung tâm chính trị – kinh tế – xã hội của tỉnh Kon Tum. Theo thời gian, mảnh đất nơi đây không ngừng được mở rộng và phát triển. Ngoài các làng của người Kinh lập nên, về sau có thêm nhiều làng của người dân tộc thiểu số vùng ven như các làng Kon Rbàng, KonM’nai, ChưHreng, cũng nằm trong phạm vi quản lý hành chính của thị trấn Kon Tum. Tháng 8-1945, cùng với cả nước, ngày 25-8-1945, nhân dân Kon Tum đã nổi dậy giành chính quyền. Chính quyền cách mạng tổ chức lại tỉnh Kon Tum thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Konplong và thành phố Kon Tum. Chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh Kon Tum được thành lập đóng trụ sở tại thành phố Kon Tum để lãnh đạo nhân dân bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Ngày 26-6-1946, thực dân Pháp tấn công và chiếm lại Kon Tum, thiết lập trở lại bộ máy cai trị vùng này. So với trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bộ máy thống trị và chính sách cai trị của Pháp từ tỉnh tới làng không mấy thay đổi. Đứng đầu bộ máy hành chính cấp tỉnh là một công sứ người Pháp, bên dưới có các huyện thường do tên đồn trưởng người Pháp nắm giữ rồi đến làng. Thực dân Pháp đã tập hợp bọn tay sai người địa phương, đặc biệt là dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo các chủ làng để nắm giữ bộ máy quyền lực ở cơ sở. Về phía cách mạng, sau khi thực dân Pháp tái chiếm Kon Tum, chính quyền cách mạng lâm thời tan rã, tổ chức Đảng bị phân tán, thất lạc. Trong thời gian này, tỉnh Kon Tum chịu sự quản lý chỉ đạo về hành chính của xứ ủy Trung Kỳ và Phân ban vận động quốc dân thiểu số Nam Trung Bộ. Tháng 1-1947, thành lập Phân khu 15, trong đó nòng cốt là tỉnh Kon Tum và các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Trên thực tế, tổ chức hành chính của Kon Tum vẫn giữ nguyên, nhưng chịu sự quản lý và chi phối của Phân khu 15 về hoạt động quân sự. Tháng 8-1947, Khu 15 Tây Nguyên được thành lập, tỉnh Kon Tum là một trong những đơn vị hành chính trực thuộc Khu 15. Tháng 3-1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V, tỉnh Kon Tum và tỉnh Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia – Kon. Ban cán sự Gia – Kon ra quyết định thành lập 7 khu (huyện). Địa bàn tỉnh Kon Tum tổ chức thành 3 khu: khu 1 (Đăk Glei); khu 2 (Đăk Tô); khu 3 (Konplong). Tháng 10-1951, theo quyết định của Liên Khu uỷ V, tỉnh Kon Tum và các huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền Tây. Tháng 2-1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và duy nhất ở Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng. Một thời gian sau, Mặt trận miền Tây cũng được giải thể. Theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ ký ngày 20-7-1954, tỉnh Kon Tum bước vào thời kỳ lịch sử mới. Về phía địch, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ – ngụy tiếp quản Kon Tum. Năm 1958, chúng chia bộ máy hành chính tỉnh Kon Tum thành tòa hành chính Kon Tum – bộ máy hành chính cấp tỉnh, bên dưới gồm các quận Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk Sút. Năm 1958, nguỵ quyền thành lập quận Toumơrông. Năm 1959, nguỵ quyền thành lập thêm quận Chương Nghĩa. Năm 1960, quận Konplong bị xóa bỏ. Như vậy, thực tế quận Toumơrông và quận Chương Nghĩa chiếm gần trọn diện tích của quận Konplong trước đó. Một phần đất còn lại của quận Konplong không thuộc phạm vi của hai quận mới này được sáp nhập về quận Kon Tum. Năm 1961, quận Chương Nghĩa bao gồm phần đất phía đông sông Đăk Nghé, giáp với Ba Tơ (Quảng Ngãi) được cắt về tỉnh Quảng Ngãi. Tỉnh Kon Tum còn lại 4 đơn vị hành chính cấp quận: Kon Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông. Sau năm 1965, phân cấp hành chính của Nguỵ quyền Sài Gòn tại Kon Tum có sự thay đổi. Đối với khu vực thị xã, thị trấn đông dân, chúng vẫn giữ nguyên cấp quận; những nơi xa xôi, ít dân cư hơn, chúng giảm quận đặt thành phái viên hành chính. Năm 1970, bộ máy hành chính của địch ngoài tòa hành chính và các ty, sở ở tỉnh, bên dưới có các cấp sau: quận Kon Tum, quận Đăk Tô, phái viên hành chính Đăk Sút, phái viên hành chính Măng Buk, phái viên hành chính Chương Nghĩa (quận Chương Nghĩa chuyển về Quảng Ngãi một thời gian sau đó được nhập trở lại tỉnh Kon Tum). Năm 1972, nguỵ quyền cải danh chi khu Đăk Pét thành quận Đăk Sút để mở rộng chức năng về hành chính. Sau chiến dịch xuân – hè năm 1972, quân cách mạng giải phóng Đăk Tô – Tân Cảnh và đại bộ phận các vùng nông thôn, vùng kiểm soát của địch bị thu hẹp đáng kể; quận lỵ Đăk Tô của địch phải lưu vong về đèo Sao Mai (đông nam thành phố Kon Tum); các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cô lập giữa vùng giải phóng của ta. Địch chỉ còn co cụm phần lớn tại khu vực thành phố Kon Tum. Năm 1974, quân ta tấn công tiêu diệt hoàn toàn các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma Thuột, ngày 17-3-1975, quân và dân trong tỉnh đã nổi dậy tấn công vào đầu não của địch ở nội thị, giải phóng thành phố và toàn tỉnh Kon Tum. Về phía ta, đầu năm 1955, toàn tỉnh đuợc chia thành 6 khu nông thôn (tương đương huyện) và một thành phố. Khu 1: lúc đầu là vùng đông và bắc thành phố Kon Tum, từ bờ sông Pô Kô (phía tây) đến bờ sông Đăk Nghé (phía đông). Khu 2: bao gồm toàn huyện Konplong ngày nay. Khu 3: gồm một số vùng thuộc huyện Đăk Glei và một số vùng của Đăk Tô (nay thuộc huyện Đăk Hà) giáp với khu 6 và giáp với huyện Konplong ngày nay. Khu 4: vùng tây huyện Đăk Glei từ giáp Quảng Nam đến Đăk Nây Pui, phía tây giáp biên giới Lào. Khu 5: được hình thành và giải thể trước khi có hiệp định Giơnevơ nên không còn. Một phần khu 5 nhập vào khu 4, phần còn lại nhập vào khu 6. Khu 6: từ Vơmơna, phía đông giáp Măng Buk đến vùng Kayong giáp biên giới Lào, phía bắc giáp vùng Đăk Hà, phía nam đến Konplong. Khu 7: thuộc huyện Sa Thầy ngày nay. Cuối năm 1956, đầu năm 1957, các khu vực được sắp xếp lại và chuyển đổi thành huyện: cắt một phần khu 3 giáp khu 6 thành khu 8; cắt một phần nam khu 2 thành khu 9; giải thể khu 6. Hình thành nên các huyện: khu 1 và một phần khu 6 sáp nhập thành huyện H16; khu 2 và khu 9 sáp nhập thành huyện H29; khu 3 chuyển thành huyện H30; khu 8 và một phần khu 6 sáp nhập thành huyện H80; khu 4 thành huyện H40; khu 7 và một phần khu 6 sáp nhập thành huyện H67. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các huyện trong tỉnh Kon Tum đều được gọi theo tên mật danh như: H16, H29, H30, H40, H67, H80. Riêng thành phố Kon Tum lúc đó mang mật danh là H5. Vùng KonHring (nay thuộc huyện Đăk Hà) mang mật danh H9. ứng với mỗi mật danh có tên gọi cụ thể là: H16 (Konpraih); H29 (Konplong); H80 (Đăk Tô); H5 (thành phố Kon Tum); H30 (phía đông Đăk Glei); H40 (phía tây Đăk Glei); H67 (Sa Thầy); H9 (Kon Hring). Sau khi tỉnh Kon Tum được giải phóng (17-3-1975), toàn tỉnh có thành phố Kon Tum và 6 huyện là H30, H40, H16, H29, H80, H67. Tháng 10-1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia Lai – Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có các huyện: huyện Konplong (H16 + H29), huyện Đăk Glei (H30 + H40), thành phố Kon Tum (H5 + H9), huyện Đăk Tô (H80). Năm 1979, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ sở phần đất của H67 cũ. Tháng 10-1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Theo đó, một số huyện mới được thành lập như Ngọc Hồi (năm 1992); Đăk Hà (năm 1994), huyện Kon Rẫy (năm 2002), huyện Tu Mơ Rông (năm 2005).
Cập nhật thông tin chi tiết về Cầu Treo Kon Klor Kon Tum trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!