Bạn đang xem bài viết Giới Thiệu Về Đất Nước Lào được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Vang Vieng, Luang Prabang, Pha That Luang… là những thắng cảnh không thể bỏ qua khi du lịch tới Lào.
1. Vang Vieng
Có thể nói, Vang Vieng là “thiên đường khám phá” thu hút hàng triệu dân ba lô du lịch bụi từ khắp nơi trên thế giới. Với một cảnh quan đẹp được xem là nhất nhì ở Lào, thị trấn ven sông Vang Vieng là nơi giới trẻ hội tụ trong những màn chinh phục thác ghềnh hay say sưa bên men rượu nồng chất ngất.
2. Muang Ngoi Neua
Ngược lên dòng sông xanh ở phía Bắc Luang Prabang độ một giờ ô tô, du khách sẽ đến với vùng đất nằm trên tuyến du lịch Đông Nam Á vô cùng hấp dẫn – thị trấn vùng núi Muang Ngoi Neua cổ kính.
Nếu là dân du lịch yêu thích việc đi bộ, leo núi thì thị trấn này chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng. Một bên là dòng sông trở nặng phù sa, một bên là dãy núi cao bao bọc, Muang Ngoi Neua hiện lên thanh bình và yên ả đến không ngờ.
3. Pha That Luang
Pha That Luang là tên một bảo tháp mạ vàng đồ sộ ở thủ đô Vientiane xinh đẹp, là di tích quan trọng đồng thời là niềm tự hào lớn đối với người dân “đất nước Triệu voi”.
4. Si Phan Don
Si Phan Don là quần đảo rộng lớn nằm ở mũi cực nam của Lào, nơi dòng Mê Kông hiền hòa chảy qua thác Khone trước khi hòa vào dòng sông lớn ở Campuchia. Với 4000 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau, Si Phan Don mang đến cho du khách bức tranh thủy mặc đẹp đến mê hồn.
5. Luang Prabang
Sẽ là chưa tròn vẹn trong cuộc hành trình du lịch khám phá “đất nước Triệu Voi” nếu bạn chưa đến thăm Luang Prabang – một trong những thành phố được bảo tồn tốt nhất châu Á, nơi khiến bạn phải sừng sỡ bởi vẻ đẹp không phai dấu với thời gian.
6. Khu bảo tồn tự nhiên Bokeo
Du khách đến đây vẫn truyền tai nhau về vẻ đẹp và sự hấp dẫn khi đến thăm Khu bảo tồn tự nhiên Bukeo thuộc tỉnh Bukeo. Và kinh nghiệm để khám phá hết vùng đất hoang dã này là tham gia chuyến phiêu lưu Gibbon Experience để khám phá vùng đất hoang dã cùng các loài động vật sinh sống nơi đó.
7. Động Tham Kong Lo
Động Tham Kong lo được xem là một trong những địa điểm tham quan kỳ thú không dành cho những người yếu tim khi đến thăm ở Lào.
8. Thác Kuang Si
Nằm trong danh sách những bộ sưu tập thác nước đẹp nhất Trái đất, thác nước Kuang Si hiền hòa trải rộng chỉ 50m này cũng đủ “đốn tim” bao du khách viếng thăm.
9. Sông Mê Kông
Là con sông lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á (dài 4.350km), bắt nguồn từ Trung Quốc và đi qua 5 quốc gia trong vùng là Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, sông Mê Kông đem đến cho du khách cảnh quan tựa dòng Amazon xanh mướt ở Nam Mỹ.
10. Vieng Xai
Được xây dựng ở tỉnh Hua Phan trong những năm 1960, Vieng Xai là một trong những công trình ngầm ngoạn mục nhất thế giới, là nơi ẩn náu trong thời kỳ chiến tranh ở Lào.
Giới Thiệu Đất Nước Lào
Lào là một đất nước hiền hoà thơ mộng tô điểm bởi dòng Mê Kông như môt món trang sức quý giá còn tiềm ẩn chưa được khám phá của du khách bốn phương. Hiện nay, du khách muốn đến Lào có thể bằng máy bay nếu muốn tiết kiệm được thời gian, và nếu muốn trải nghiệm mới về thiên nhiên hoang dã thì hành trình khám đường mòn Đông Dương bằng xe là sự lựa chọn tốt nhất
Lịch sử Lào được nhắc đến bởi câu chuyện tình của vua Phà Ngừm và c ông chúa Kiều Lạc Campuchia. Ông từng là người hung bạo, tham quyền cố vị, nhưng khi kết hôn với công chúa – người chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo rất sâu sắc, nhờ đó ông đã thay đổi thái độ, trở thành một vị vua được người dân yêu mến. Đất nước dưới sự trị vì của ông đã trở nên hưng thịnh hơn.
Công lao đó phải kể đến khi công chúa sang Lào, bà thấy dân chúng thời đó sùng bái quỷ thần, mê tín dị đoan, thường hay hiến tế bằng phụ nữ, cho nên bà khuyên nhà vua nên can thiệp để đưa Phật Giáo vào, nhằm giúp dân chúng thay đổi tín ngưỡng. Bằng không, sẽ không thể cai trị lâu dài được. Vua Phà Ngừm nghe theo. Nhà vua đã cho xây cất chùa Pasamanerama ở phía bắc Hoàng cung để các cao tăng cư ngụ, thuyết pháp cho hoàng thân quốc thích và quan lại trong triều, bên cạnh đó các chùa nhỏ cũng được xây dựng lên cho dân chúng thờ cúng. Công chúa Kiều lạc chính là nhân tố thúc đẩy Phật Giáo trở thành quốc giáo và ảnh hưởng rất nhiều đến đạo đức, tính cách, lối sống của người Lào.
Trải qua các giai đoạn thăng trầm lịch sử. Cuối cùng vào ngày 2 tháng 12 năm 1957, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào thành lập và ngày này cũng chính là ngày quốc khánh của Lào.
Thủ Đô Viêng Chăn xinh đẹp 2013
Văn hóa Lào đặc sắc bởi nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến đời sống ẩm thực tuyệt vời của Lào. Với các món nướng từ nguyên liệu gần gũi, hoang dã như gà nướng, cá suối nướng, heo rừng, nai….và các món lạp. Với khẩu vị cay nồng ảnh hưởng Thái Lan cùng hòa quyện với bia Lào thì thật hấp dẫn du khách biết bao.
Dân tộc Lào hiếu khách
Khi đi du lịch Lào, du khách sẽ cảm thấy gần gũi, vui vẻ như chính ngôi nhà của mình bởi người Lào hiền hòa, vui tính, hiếu khách. Du lịch Lào không chỉ đặc sắc, hấp dẫn bởi các lễ hội truyền thống lễ hội Bunpimay (tết Lào), tết Hmông mà còn bởi các lễ hội diễn ra điều đặn:
*Bun Phavet ( Phật hóa thân) vào tháng 1.
*Bun VisakhaPuya ( Phật đản) vào tháng 4.
*Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng 5.
*Bun Khao PhanSa (mùa chay) vào tháng 7.
*Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ người đã mất) vào tháng 9.
*Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10.
Với kinh nghiệm du lịch Lào ngoài thưởng thức những món ăn ngon, du khách cũng không nên bỏ lỡ tham quan các thắng cảnh xinh đẹp của Lào:
*Viện bảo tàng quốc gia Lào
Giới Thiệu Về Đất Nước Nauy
Giới thiệu đôi nét về đất nước Nauy
Nước này giáp biên giới với Thuỵ Điển, Phần Lan, và Nga. Khoảng cách từ các phần phía bắc và phía nam Na Uy lớn hơn rất nhiều so với khoảng cách từ đông sang tây. Đường bờ biển dài dọc theo Bắc Đại Tây Dương của quốc gia này là nơi có những fjord (vịnh hẹp) nổi tiếng của họ.
Đảo Bouvet tại Nam Đại Tây Dương và những lời tuyên bố chủ quyền với Đảo Peter I và Vùng đất Nữ hoàng Maud tại Nam Cực cũng là những vùng phụ thuộc bên ngoài của quốc gia này, nhưng không phải là một phần của Vương Quốc.
Từ sau Thế chiến II, kinh tế Na Uy phát triển nhanh chóng, hai thập kỉ đầu chủ yếu nhờ vào hàng hải, từ đầu những năm 1070 chủ yếu dựa vào khai thác và chế biến lượng lớn dầu mỏ tại Biển Bắc và Biển Na Uy. Ngày nay, Na Uy được xếp hạng là nước thịnh vượng nhất thế giới[1][2][3] với khối lượng dự trữ vốn trên đầu người cao nhất thế giới.
Tháng 8 2009, Dự trữ quốc gia Na Uy tuyên bố họ sở hữu khoảng 1% chứng khoán toàn cầu. Hiện nay Na Uy là nước xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ bảy[4] và công nghiệp dầu khí đóng góp khoảng một phần tư cho tổng GDP.[5] Sau khủng hoảng tài chính quốc tế 2007-2009, các chuyên gia ngân hàng đã coi đồng Krone Na Uy là một trong những đồng tiền vững chắc nhất thế giới.[6]
Na Uy được xếp hạng cao nhất về phát triển con người từ năm 2001 tới năm 2006.[cần dẫn nguồn] Nước này cũng được xếp hạng là quốc gia an toàn nhất thế giới năm 2007 theo một cuộc khảo sát của Global Peace Index.
Tên gọi của Nauy
Nhiều nhà từ nguyên học tin rằng cái tên nước này xuất phát từ các Ngôn ngữ Bắc Germanic và nó có nghĩa là “con đường dẫn về hướng bắc”, trong tiếng Bắc Âu cổ sẽ là nor veg hay *norð vegr. Cái tên tiếng Bắc Âu cổ của Na Uy là Nóregr, trong tiếng Anglo-Saxon Norþ weg, và trong tiếng La tinh thời Trung Cổ là Northvegia. Cái tên hiện nay của Na Uy là Norge trong tiếng Na Uy bokmål và Noreg trong nynorsk Na Uy.
Trong các ngôn ngữ bản xứ khác của Na Uy, cái tên là: Bản mẫu:Lang-se; Lule Sami: Vuodna; Nam Sami: Nøørje; Tiếng Phần Lan/Kven: Norja. Tên chính thức là: tiếng Na Uy: Kongeriket Norge (bokmål), Kongeriket Noreg (nynorsk); Bản mẫu:Lang-se; Lule Sami: Vuona gånågisrijkka; Nam Sami: Nøørjen gånkarijhke; Tiếng Phần Lan/Kven: Norjan kuningaskunta.
Lịch sử đất nước Nauy
Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con người đã có mặt tại Na Uy ngay từ Thiên niên kỷ thứ 10 trước Công Nguyên (12.000 năm trước). Nghiên cứu khảo cổ cho thấy họ hoặc tới từ những vùng phía nam (bắc Đức)[cần dẫn nguồn], hay đông bắc (bắc Phần Lan hay Nga) [cần dẫn nguồn]. Từ đó họ định cư dọc bờ biển.
Ở thế kỷ thứ 9, dường như Na Uy gồm một số vương quốc nhỏ. Theo truyền thống, Harald Fairhair đã tập hợp các tiểu quốc nhỏ thành một vào năm 872 sau Công Nguyên sau Trận Hafrsfjord. Ông trở thành vị vua đầu tiên của nước Na Uy thống nhất.
Thời kỳ Viking (thế kỷ thứ 8 tới thế kỷ 11) là một trong những giai đoạn thống nhất và mở rộng. Người Na Uy đã lập các khu định cư tại Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và nhiều phần của Anh Quốc và Ireland và tìm cách định cư tại L’Anse aux Meadows ở Newfoundland, Canada (“Vinland” của Saga of Eric the Red).
Người Na Uy đã thành lập các thành phố Limerick, Dublin, và Waterford của Ireland[8] và thành lập các cộng đồng thương mại gần các khu định cư Celtic của Cork và Dublin[cần dẫn nguồn] sau này trở thành hai thành phố quan trọng nhất của Ireland.
Sự lan tràn của Thiên chúa giáo ở Na Uy trong giai đoạn này phần lớn nhờ các vị vua truyền giáo Olav Tryggvasson (995-1000) và St. Olav (1015-1028), dù Haakon the Good là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên của Na Uy. Các truyền thống Norse đã dần thay thế trong các thế kỷ thứ 9 và thứ 10.
Năm 1349, nạn dịch Tử thần Đen đã giết hại khoảng 40% tới 50% dân số Na Uy,[9] khiến nước này suy sụp cả về xã hội và kinh tế. Trong cuộc suy thoái này, có lẽ Triều đại Fairhair đã kết thúc nă, 1387. Bề ngoài có vẻ chính trị hoàng gia ở thời điểm ấy đã dẫn tới nhiều hiệp đoàn cá nhân giữa các quốc gia Nordic, cuối cùng dẫn tới việc ngôi vua của Na Uy, Đan Mạch, và Thuỵ Điển rơi vào tay Nữ hoàng Margrethe I của Đan Mạch khi nước này gia nhập Liên đoàn Kalmar với Đan Mạch và Thuỵ Điển.
Dù Thuỵ Điển cuối cùng đã rút lui khỏi liên đoàn năm 1523, Na Uy tiếp tục ở lại với Đan Mạch trong 434 năm cho tới năm 1814. Trong chủ nghĩa lãng mạn quốc gia ở thế kỷ 19, giai đoạn được một số người gọi là “Đêm trường 400 Năm”, bởi tất cả hoàng gia, giới học giả và quyền lực hành chính ở các vương quốc được tập trung tại Copenhagen, Đan Mạch.
Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy sụp của Na Uy trong giai đoạn này. Với sự xuất hiện của Đạo Tin Lành năm 1537, Tổng giám mục tại Trondheim bị giải tán, và các nguồn thu của nhà thờ được phân chia cho triều đình ở Copenhagen tại Đan Mạch.
Na Uy mất nguồn hành hương ổn định tới thánh tích của St. Olav tại hầm mộ Nidaros, và cùng với đó, là đa phần nguồn liên hệ với đời sống văn hoá và kinh tế với phần còn lại của Châu Âu. Ngoài ra, trong thế kỷ 17 Na Uy cũng bị mất một phần diện tích lãnh thổ khi mất các tỉnh Båhuslen, Jemtland, và Herjedalen cho Thuỵ Điển, sau những cuộc chiến tranh giữa Đan Mạch-Na Uy và Thuỵ Điển.
Sau khi Đan Mạch-Na Uy bị Anh Quốc tấn công, họ tham gia vào liên minh với Napoleon, và vào năm 1814 thấy mình đang ở bên thua cuộc trong Những cuộc chiến tranh Napoleon và trong tình thế nguy ngập với nạn đói năm 1812.
Vị vua Oldenburg của Đan Mạch Na Uy buộc phải nhường Na Uy cho Thuỵ Điển, trong khi các tỉnh cũ của Na Uy là Iceland, Greenland và Quần đảo Faroe vẫn tiếp tục thuộc về triều đình Đan Mạch. Na Uy lợi dụng cơ hội này để tuyên bố độc lập, chấp nhận một hiến pháp dựa trên mô hình hiến pháp Mỹ và Pháp, và bầu vị thái tử người Đan Mạch Christian Fredrik lên làm vua ngày 17 tháng 5 năm 1814.
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự nổi lên của phong trào văn hoá Chủ nghĩa quốc gia lãng mạn Na Uy, khi người Na Uy tìm cách định nghĩa và thể hiện một bản sắc quốc gia riêng biệt.
Christian Michelsen, một ông trùm ngành tàu bè và là một chính khách, đã làm Thủ tướng Na Uy từ năm 1905 tới năm 1907. Michelsen nổi tiếng nhất về vai trò quan trọng của ông trong cuộc ly khai hoà bình của Na Uy với Thuỵ Điển ngày 7 tháng 7 năm 1905. Sự bất mãn ngày càng tăng của Na Uy về liên minh với Thuỵ Điển hồi cuối thế kỷ 19 cộng với chủ nghĩa quốc gia đã thúc đẩy nhanh sự tan rã của liên minh.
Sau một cuộc trưng cầu dân ý xác định sự ưa chuộng của người dân với chế độ quân chủ hơn một nền cộng hoà, chính phủ Na Uy đã đề xuất trao ngôi báu Na Uy cho Hoàng tử Đan Mạch Carl và Nghị viện đã nhất trí bầu ông. Ông lấy tên Haakon VII, theo các vị vua khi Na Uy độc lập thời Trung Cổ. Năm 1898, tất cả mọi nam giới đều được trao quyền bầu cử, sau đó phụ nữ năm 1913.
Trong Thế chiến I, Na Uy là một nước trung lập. Na Uy cũng tìm cách tuyên bố trung lập trong Thế chiến II, nhưng đã bị các lực lượng Đức xâm lược Na Uy ngày 9 tháng 4 năm 1940. Na Uy không hề chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công bất ngờ như vậy của Đức, nhưng các cuộc kháng cự quân sự vẫn diễn ra trong hai tháng, lâu hơn bất kỳ một quốc gia nào khác bị người Đức xâm lược, ngoại trừ Liên bang Xô viết. Trong Chiến dịch Na Uy, Kriegsmarine mất nhiều tàu chiến kể cả chiếc tuần dương hạm Blücher.
Những trận chiến Vinjesvingen và Hegra đã trở thành những cứ điểm kháng cự cuối cùng của người Na Uy ở phía nam nước này vào tháng 5, trong khi các lực lượng vũ trang ở phía bắc tung ra các cuộc tấn công vào các lực lượng Đức trong Các trận đánh Narvik, cho tới khi họ buộc phải đầu hàng ngày 10 tháng 6 sau khi mất sự hỗ trợ của Đồng Minh đi cùng sự thất trận của nước Pháp. Vua Haakon và chính phủ Na Uy tiếp tục cuộc chiến trong hoàn cảnh tị nạn tại Rotherhithe, Luân Đôn.
Vào ngày cuộc xâm lược diễn ra, vị đồng lãnh đạo của Đảng Quốc gia-Xã hội nhỏ Nasjonal Samling – Vidkun Quisling – đã tìm cách lên nắm quyền lực, nhưng đã bị quân chiếm đóng Đức gạt ra rìa. Quyền lực thực sự nằm trong tay chính quyền chiếm đóng Đức, Reichskommissar Josef Terboven. Quisling, với tư cách bộ trưởng tổng thống, sau này đã thành lập một chính phủ liên minh dưới sự quản lý của Đức.
Các cơ sở tại Na Uy đã chế tạo nước nặng, một nguyên liệu chủ chốt chế tạo vũ khí hạt nhân, và cuối cùng đã bị người Đức bỏ lại sau nhiều nỗ lực phá huỷ cơ sở Vemork của người Na Uy, người Anh và ngưoiừ Mỹ.
Trong những năm chiếm đóng của Phát xít, người Na Uy đã xây dựng một phong trào kháng chiến mạnh chống lại các lực lượng chiếm đóng Đức bằng cả chiến tranh vũ trang và bất tuân dân sự.
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hơn với Đồng Minh, là vai trò của hải quân thương mại Na Uy. Ở thời điểm xảy ra cuộc xâm lược, Na Uy có hạm đội tàu biển thương mại đứng hàng thứ tư thế giới (cũng như có tốc độ nhanh nhất và hiệu quả nhất).
Công ty tàu biển Na Uy Nortraship đã nằm dưới sự điều khiển của Đồng Minh trong suốt cuộc chiến và tham gia vào mọi chiến dịch từ việc sơ tán Dunkirk tới cuộc đổ bộ vào Normandy.
Sau cuộc chiến, những thành viên đảng Dân chủ Xã hội lên nắm quyền và lãnh đạo quốc gia trong hầu hết thời gian cuộc chiến tranh lạnh. Na Uy đã gia nhập NATO năm 1949, và trở thành một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ.
Hai cuộc trưng cầu dân ý nhằm gia nhập Liên minh Châu Âu (được gọi là Cộng đồng Châu Âu năm 1972) đã thất bại với tỷ số mong manh năm 1972 và 1994. Những nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas lớn đã được khám phá trong thập niên 1960, dẫn tới sự bùng nổ kinh tế sau đó.
Địa lý, Khí hậu và Môi trường Nauy
Na Uy gồm phần phía tây của Scandinavia ở Bắc Âu. Bờ biển lởm chởm, bị chia cắt bởi nhiều vịnh hẹp (fjord) và khoảng 50.000 hòn đảo, trải dài hơn 2.500 km. Na Uy có 2.542 km đường biên giới trên bộ chung với Thuỵ Điển, Phần Lan, và Nga ở phía đông. Từ phía tây tới phía nam, Na Uy giáp với Biển Na Uy, Biển Bắc, và Skagerak. Biển Barents nằm ở các bờ biển phía bắc Na Uy..
Với diện tích 385.155 km² (gồm cả Jan Mayen, Svalbard), Na Uy hơi lớn hơn Đức, nhưng đa phần lãnh thổ là núi non hay vùng đất cao, với sự đa dạng lớn về địa hình tự nhiên do các dòng sông băng thời tiền sử gây nên.
Đặc điểm đáng chú ý nhất là các vịnh hẹp: Những rãnh sâu cắt vào đất liền của biển sau sự chấm dứt của Thời kỳ băng hà, vịnh dài nhất là Sognefjorden. Na Uy cũng có nhiều sông băng và thác nước.
Đất đai chủ yếu gồm đá granite cứng và đá gneiss nhưng, đá acđoa, sa thạc và đá vôi cũng thường thấy, và ở những khu vực có độ cao thấp nhất thường có trầm tích biển. Vì Gulf Stream những cơn gió tây, Na Uy có nhiệt độ ấm và lượng mưa lớn hơn ở các vùng có vĩ độ bắc như vậy, đặc biệt dọc theo bờ biển.
Lục địa có bốn mùa riêng biệt, với mùa đông lạnh và ít mưa hơn trong đất liền. Vùgn cực bắc chủ yếu có khí hậu cận Bắc Cực biển, trong khi Svalbard có khí hậu tundra Bắc Cực.
Có sự khác biệt theo mùa lớn trong ngày. Tại các vùng phía bắc Vòng Bắc Cực, mặt trời mùa hè có thể không bao giờ xuống dưới đường chân trời, vì thế Na Uy được miêu tả là “Vùng đất của Mặt trời lúc nửa đêm.” Trong mùa hè, người dân ở phía nam Vòng Bắc Cực có ánh sáng mặt trời trong vòng gần 20 giờ trong ngày.
Giới Thiệu Về Đất Nước Hungary
Thành phố Budapest là thủ đô của Hungary. Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như OECD, NATO, Liên minh Châu Âu và Hiệp ước Schengen. Ngôn ngữ chính thức tại Hungary là tiếng Hungary, hay còn gọi là tiếng Magyar – một ngôn ngữ thuộc nhóm Finno-Ugric có liên hệ gần với tiếng Phần Lan và tiếng Estonia. Tiếng Hungary là một trong bốn ngôn ngữ chính thức của Liên minh Châu Âu không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
Hungary trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách nước ngoài là nhờ sự tổng hợp, hòa quyện của nhiều yếu tố. Ðó là nền văn hóa lâu đời, khí hậu ôn đới lục địa chỉ có duy nhất ở vùng lòng chảo Các-pát, với rau xanh và hoa quả có chất lượng nổi trội hơn trên thế giới; sự hội tụ nhiều nền văn hóa ẩm thực, v.v. Thủ đô Budapest và nhiều thành phố có lịch sử đa dạng; những thảo nguyên bát ngát nằm ở phía tây châu Âu – nơi lý tưởng dành cho những du khách muốn giải trí bằng đi săn bắn, cưỡi ngựa và câu cá. Nhiều lễ hội văn hóa, dân gian truyền thống được tổ chức trong năm và các loại hình âm nhạc phong phú. Du khách đến Hungary được đón tiếp và gặp những chủ nhân của đất nước tươi đẹp này, đó là những người Hungary thân thiện và mến khách.
Từ rất xa xưa cho đến ngày nay, Hungary luôn là chiếc cầu nối giữa Ðông và Tây Âu. Người Hungary đến châu Âu và lập nghiệp ở vùng lòng chảo Các-pát từ năm 896, họ luôn gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập châu Âu. Tuy diện tích có hơn 93 nghìn km2, chiếm 1% lãnh thổ châu Âu, nhưng Hungary có tới 520 nghìn ha đất dành cho các khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có mười công viên quốc gia. Hungary có nhiều sông ngòi và hồ lớn. Và dường như dưới mặt đất của Hungary là cả một biển nước trị bệnh. Nguồn nước nóng, nước khoáng của Hungary chữa được các bệnh tê thấp, rối loạn vận động, các căn bệnh ngoài da, các chứng rối loạn tiêu hóa, v.v. Là nước chịu ảnh hưởng của cả hai nền văn hóa Ðông và Tây, trải qua hơn một nghìn năm lịch sử, những kiến trúc thời La Mã, các dinh thự lộng lẫy, các nhà thờ thời trung cổ, vương cung, thánh đường tráng lệ cùng các tòa lâu đài cổ kính của Hungary vẫn trường tồn cùng thời gian, cuốn hút du khách nước ngoài đến chiêm ngưỡng và khám phá.
Ngoài thủ đô Budapest, Hungary còn có sáu thành phố và khu vực khác được UNESCO công nhận là di sản thế giới và di sản văn hóa thế giới.
https://www.dulichcongvu.com/du-lich-hungary-c25.html
Giới Thiệu Về Đất Nước Nepal
Lâm Tỳ Ni là một trong bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất của Phật giáo, gọi là Tứ động tâm. Tứ động tâm gồm: Lâm Tỳ Ni thuộc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) thuộc Ma Kiệt Đà (Magadha), Lộc Uyển nơi chuyển pháp luân xứ Ba La Nại (Benares), và Câu Thi Na (Kushinagar) thuộc cộng hòa Malla (bang Bihar ngày nay), nơi đức Phật nhập Vô dư Niết bàn. Bốn thánh tích trọng đại này được cô đọng trong bốn câu rất dễ nhớ:
Cộng hòa dân chủ liên bang Nepal (trước kia gọi là Vương quốc Nepal ) là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại vùng Himalaya ở Nam Á có phần chồng gối với Đông Á, giáp biên giới với Tây Tạng của Trung Quốc ở phía bắc và Ấn Độ ở phía nam, đông và tây.
Văn hóa Nepal tương đồng với những nền văn hóa lân cận là Tây Tạng và Ấn Độ, về trang phục, ngôn ngữ, và thực phẩm. Một bữa ăn điển hình Nepal là – dal hấp với gạo, rau và các gia vị. Món này được dùng hai lần mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi tối. Giữa hai bữa chính đó là các món ăn nhanh như chiura (gạo giã) và chè. Thịt, trứng và cá được coi là bữa tiệc
Đại đa số người dân Nepal theo Ấn Độ giáo. Thần Shiva được coi là thần bảo hộ của đất nước. Nepal là quê hương của Thần Shiva, với ngôi đền nổi tiếng Pashupatinath, nơi mà người Hindu từ khắp nơi trên thế giới đến hành hương.
Nepal còn là thánh địa của Phật giáo với Lâm Tỳ Ni là một địa điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng và đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Theo truyền thuyết được cho là nơi sinh của Siddhartha Gautama, sau này là Đức Phật Thích Ca, người sáng lập Phật giáo.
Địa điểm linh thiêng Lâm Tỳ Ni được bao bọc bởi một khu tu viện lớn, trong khuôn viên đó chỉ có tu viện mới được xây dựng. Có tất cả ba hệ phái lớn của Phật giáo tồn tại ở Nepal đó là Đại Thừa, Tiểu Thừa và Kim Cương Thừa. Phật giáo cũng là tôn giáo hàng đầu ở khu vực phía Bắc thưa dân, trong đó chủ yếu là nơi sinh sống của các tộc người Tây Tạng, người Sherpa.
Hồi giáo là một tôn giáo thiểu số ở Nepal, với 4,2% dân số là người Hồi giáo theo điều tra dân số năm 2006., ngoài ra còn có Kitô giáo và Kỳ Na giáo.
Lâm Tỳ Ni là một trong bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất của Phật giáo, gọi là Tứ động tâm. Tứ động tâm gồm: Lâm Tỳ Ni thuộc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) thuộc Ma Kiệt Đà (Magadha), Lộc Uyển nơi chuyển pháp luân xứ Ba La Nại (Benares), và Câu Thi Na (Kushinagar) thuộc cộng hòa Malla (bang Bihar ngày nay), nơi đức Phật nhập Vô dư Niết bàn. Bốn thánh tích trọng đại này được cô đọng trong bốn câu rất dễ nhớ:
“Đản sanh Ca Tỳ La
Thành đạo Ma Kiệt Đà
Thuyết pháp Ba La Nại
Niết bàn Câu Thi Na”.
Lâm Tỳ Ni, phạn ngữ là Lumbini, xưa kia là khu vườn xinh đẹp của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hiện nay vị trí khu vườn này nằm trên phần đất của Nepal, tiếp giáp biên giới, chỉ cách Ấn Độ khoảng 30 km. Lâm Tỳ Ni, nơi đản sinh một Đức Phật, nằm dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn, các sách thường ghi cách thành Ca Tỳ La Vệ cũ khoảng 15 km, rất có thể là đường chim bay, trên thực tế phải đi vòng bằng đường lộ nhựa khoảng 40km.
Theo phong tục Ấn Độ, người con gái sắp đến ngày sinh nở phải trở về quê mẹ, hoàng hậu Ma Da cũng không ngoại lệ. Trên đoạn đường về quê, khi ngang qua khu vườn Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy tâm trạng thư thái nhẹ nhàng, niềm vui lâng lâng khó tả giữa những tiếng chim đủ loại reo hót trên các cành cây như đón chào bà, một thánh mẫu đang mang thánh thai. Ánh bình minh tỏ rạng, những tia nắng hồng ban mai xuyên qua các cành cây cổ thụ để lại những vệt sáng dài trên cỏ, làm long lanh những giọt sương dường như còn đang say ngủ trong buổi sáng êm ả đẹp trời.
Trong lúc đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật quanh khu vườn, giữa bao kì hoa dị thảo, bỗng nhiên bà cảm thấy nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ bắt đầu xảy ra và phải xảy ra tại nơi này. Bà liền với tay nắm cành cây vô ưu để vững vàng trong giây phút chuyển dạ đột ngột. Bà liền cho thị nữ căng màn, trải một nơi nằm tạm thời cho giờ phút thiêng liêng, sự chờ đợi nức lòng của cả chư thiên và loài người, hay đúng hơn chính là sự mong mỏi của vua Tịnh Phạn và toàn dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Bà hạ sinh một hoàng nam khôi ngô tuấn tú, một đấng trượng phu xuất cách được biểu hiện ngay từ lúc sơ sinh.
Tương truyền rằng, khi sinh thái tử, lúc đó trái đất rung chuyển bảy lần, nhạc trời rền vang cả hư không, muôn chim bay lượn khắp trời, cây cối trong vườn xinh tươi hẳn lên và đức Bồ-tát hạ sinh từ hông phải của mẹ, bước đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân. Ngài dõng dạt tuyên ngôn: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, vô lượng sinh tử, ư kim tận hỷ” – Trên trời dưới trời, sự giác ngộ là trên hết. Mọi trói cột của sanh tử, đời này đoạn diệt hết. Kinh Trường A Hàm I.
Sau đó, đoàn tùy tùng đưa bà hồi kinh, trước sự đón rước mừng vui, reo hò của thần dân trong kinh thành. Và người vui mừng tột độ không ai khác hơn là vua Tịnh Phạn, một người đã ngày đêm khẩn cầu để có được hoàng nam xứng đáng kế thừa vương vị. Lúc ấy vào ngày trăng tròn tháng Vesak Ấn Độ, tương đương rằm tháng Tư âm lịch, năm 623 (hoặc 624) trước kỷ nguyên Tây lịch.
Hiện nay, tại vườn Lâm Tỳ Ni vị trí quan trọng nhất đang được xây kín lại để chống xói mòn và hư hoại. Bên trong là những nền gạch cũ mục, một vài chỗ phải được chống đỡ để khỏi bị sụp đổ. Những vết tích cổ xưa như dấu chân vẫn còn in trên đá, được xác định là vị trí lúc Đức Phật đản sinh. Trên bờ tường gạch kề bên dấu chân Phật, cách mặt đất khoảng 3m có một bức phù điêu rất xinh đẹp khắc hình hoàng hậu Ma Da trong tư thế đứng đang đưa tay vịnh cành cây vô ưu, phía trước có hình thái tử đản sinh và xung quanh có những thị nữ đang đứng hầu.
Quang cảnh xung quanh Lâm Tỳ Ni ít nhiều cũng có bàn tay chăm sóc của con người. Bên cạnh nền gạch cũ còn sót lại, một vài cây xanh vươn mình che bóng mát khiêm tốn trong khoảng trống giới hạn; vài khóm hoa cùng đua sắc màu trong bầu trời xuân tươi đẹp. Bao nhiêu đó cũng làm cho khu thánh địa Lâm Tỳ Ni gợi lên được sức sống tiềm ẩn, cố chờ đợi sự huy hoàng sẽ được lập lại tại khu thánh địa này, nơi đánh dấu sự ra đời của bậc vĩ nhân.
Nguồn: Internet
Liên hệ tư vấn và đặt chương trình:
Văn phòng chính: Số 1/200/10 Nguyễn Sơn, Hà Nội
Điện Thoại: (844) 38224468 Máy lẻ: 111/112/113
Ms. Diệu Mai: 091321.9284; Mr. Hải Đăng: 09047.66668
Cùng bạn An lạc trên mỗi chuyến Hành hương!
Các bài khác :
Giới Thiệu Chung Về Đất Nước Nauy
Địa hình Na Uy gồ ghề lởm chởm và nhiều đồi núi, với các đỉnh núi bao phủ rừng thông, các thung lũng bị đụt khoét bởi băng hà và các vịnh nhỏ với bờ hẹp sâu gọi là fiord. Ngoài khơi là một chuỗi các đảo ngầm che chở bờ biển hình thành con đường thủy nội địa an toàn. Tên Na Uy ( Norway ), có nghĩa là “con đường phía bắc “, phản ảnh tầm quan trọng của con đường thủy này trong việc nối liền nhiều fiord nhỏ và các thung lũng bị ngăn cách bởi địa hình gồ ghề lởm chởm. Các yếu tố địa lý này có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử phát triển của Na Uy.
Mặc dù nằm ở phía bắc nhưng Na Uy có khí hậu dễ chịu. Mùa hè mát và mùa đông ôn hòa. Dòng biển ấm Bắc Đại Tây Dương, là sự mở rộng của dòng Gulf Stream, chảy dọc bờ tây của Na Uy và đem lại cho Na Uy khí hậu ấm áp hơn những vùng khác có cùng vĩ độ. Lượng mưa trung bình hàng năm ở Bergen là 1.930mm.
Ở Oslo nhiệt độ trung bình vào tháng giêng là 5oC, hơi ấm hơn Bergen ; tuy nhiên vào tháng bảy nhiệt độ cao khoảng 28oC. Mưa thường ít hơn vùng duyên hải phía tây, trung bình 760mm /năm.
Na Uy đôi khi được gọi là “Vùng đất của mặt trời nửa đêm”. Một phần ba Na Uy nằm ở phía bắc của vòng cực Bắc. Là nơi hầu như có ngày dài suốt từ tháng năm đến tháng bảy. Vào giữa mùa đông, ở các vùng phía bắc đêm kéo dài.
Na Uy có nhiều sông ngòi và hồ. Sông lớn nhất của Na Uy là sông Glomma nằm ở phía đông dài 610m. Glomma và các nhánh của nó dẫn nước cho khoảng 1/8 diện tích Na Uy. Về phía tây các con sông thường ngắn và chảy xiết, có nhiều thác ghềnh. Sông dài nhất ở phía bắc Na Uy là sông Tana.
Sông Tana chảy vào biển Barents, hình thành một phần biên giới với Phần Lan, nổi tiếng là con sông quan trọng của Na Uy về việc đánh bắt cá hồi.
Ngoài ra còn sông Dramselv và Lagen. Na Uy có hàng ngàn hồ băng. Hồ lớn nhất là Mjosa nằm ở đông nam, diện tích 390km2.
Rừng bao phủ hơn ¼ diện tích Na Uy, chủ yếu là rừng rụng lá được tìm thấy ở vùng duyên hải phía nam và tây nam Na Uy.
Ở phía bắc và các vùng núi cao là miền lãnh nguyên. Miền lãnh nguyên là miền không cây cối, chỉ có các loài thực vật như cây bụi thấp và hoa dại. Có khoảng 2.000 loài hoa dại khác nhau mọc ở Na Uy.
Điều kiện tự nhiên ở Na Uy tuyệt vời đối với sự phát triển thủy điện. Mưa nhiều và tuyết rơi ở miền núi cung cấp nước và sức nước chảy xiết biến đổi thành năng lượng thủy điện.
Na Uy may mắn khi có nhiều năng lượng thủy điện nhưng lại thiếu than. Na Uy khai thác một ít than ở “Svalbard”. Svalbard là tên của quần đảo gồ ghề, lởm chởm đầy tuyết phủ nằm khoảng giữa đường từ phía bắc Na Uy tới Bắc Cực. Vì thế, việc khai thác các mỏ than ở vùng này rất khó khăn.
Khoáng sản chính của Na Uy là dầu mỏ và khí thiên nhiên, khai thác ở thềm lục địa.
Tài nguyên đất nông nghiệp của Na Uy rất ít. Đất trồng thích hợp cho nông nghiệp của Na Uy bao phủ chỉ 3% diện tích và nằm chủ yếu ở vùng lân cận Trondheim và Oslo.
Mọi chi tiết tư vấn thủ tục xuất nhập cảnh xin liên hệ:
CÔNG TY TNHH VISA BẢO NGỌC
88-90 TRẦN HỮU TRANG,P.10, PHÚ NHUẬN,TP.HCM
Đt: (08) 384 52 850 – 0918 126 190 (Zalo, Line) – 0916926190 (Zalo,Line, Viber) – Mr.Cường
0915526190 – 0983915304 Ms. Trang
Email: [email protected]
Facebook:htpp://facebook.com/visabaongoc
Cập nhật thông tin chi tiết về Giới Thiệu Về Đất Nước Lào trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!