Xu Hướng 3/2023 # Nam Định: Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Biển # Top 10 View | Tuyensinhtdnceovn.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Nam Định: Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Biển # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Nam Định: Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Biển được cập nhật mới nhất trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nam Định có bờ biển dài 72km với nhiều tiềm năng giá trị đã được đưa vào khai thác để phát triển kinh tế du lịch biển. Cụ thể đã hình thành các khu du lịch biển Thịnh Long (Hải Hậu), Quất Lâm (Giao Thủy). Khu vực ven biển còn có các làng nghề khai thác, đánh bắt, chế biến hải sản với phong tục, tập quán sinh hoạt đậm nét văn hóa của nền văn minh lúa nước sông Hồng. Đặc biệt, Vườn Quốc gia Xuân Thủy (Giao Thủy) với hệ sinh thái rừng ngập mặn, nơi dừng chân của các loài chim di trú là điểm Ramsar quốc tế đầu tiên của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á được đánh giá là điểm tham quan, trải nghiệm hấp dẫn. Tuy nhiên, đến nay du lịch biển của tỉnh chưa thu hút được lượng khách như mong đợi, lượng du khách sử dụng dịch vụ lưu trú, mức chi tiêu của du khách thấp, đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế địa phương ở mức khiêm tốn.

Du khách trải nghiệm dịch vụ ngắm cảnh làng quê ven biển tại bãi biển Thịnh Long.

Trước thực trạng này, tỉnh định hướng các cấp, ngành, địa phương có biển phải tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để khai thác tiềm năng, thế mạnh vùng kinh tế biển, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển kinh tế du lịch biển. Theo đó, để phát triển ngành du lịch biển, huyện Hải Hậu xác định giai đoạn 2020-2025 sẽ tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật. Chú trọng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nghỉ dưỡng tại bãi biển Thịnh Long, khu nhà thờ đổ xã Hải Lý. Tăng cường mối liên kết giữa các điểm du lịch biển với các điểm du lịch khác trên địa bàn huyện, tỉnh; hình thành các tour du lịch biển, nghỉ dưỡng dài ngày kết hợp với các loại hình vui chơi, giải trí, thi đấu thể thao. Hướng dẫn, hỗ trợ người dân sản xuất các sản phẩm phục vụ khách du lịch; tạo chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch, nhất là các sản phẩm hàng hóa du lịch từ tài nguyên biển, các sản phẩm đặc trưng của địa phương. Huyện Nghĩa Hưng xác định phát triển kinh tế biển (trong đó có du lịch biển) trở thành vùng kinh tế động lực là 1 trong 2 khâu đột phá trong nhiệm kỳ 2020-2025 của huyện. Quản lý và thực hiện tốt các quy hoạch xây dựng trên địa bàn huyện: Quy hoạch hai bên tuyến đường trục phát triển nối vùng kinh tế biển của tỉnh với đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình; Quy hoạch hai bên tuyến đường bộ ven biển và cầu Thịnh Long đoạn qua Nghĩa Hưng; quy hoạch đô thị Rạng Đông. Thu hút mọi nguồn lực để xã hội hóa đầu tư hạ tầng kinh tế biển, triển khai xây dựng khu chức năng phía Nam và hình thành đô thị Rạng Đông theo hướng phát triển đa ngành, đa lĩnh vực như phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Hình thành các tổ hợp đô thị – thương mại – du lịch – dịch vụ chất lượng cao, khu vui chơi giải trí, khách sạn, resort, sân golf… gắn với du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng. Huyện Giao Thủy xác định giai đoạn 2020-2025 sẽ tập trung phát triển du lịch biển trên cơ sở khai thác những tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương. Khai thác có hiệu quả các điểm du lịch hiện có như Vườn Quốc gia Xuân Thủy, Bảo tàng Đồng quê… Nâng cấp khu du lịch Quất Lâm trở thành khu du lịch cấp tỉnh. Tổ chức kết nối các điểm du lịch thành các tour du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch trải nghiệm văn hóa, di tích lịch sử trên địa bàn huyện trong quan hệ hợp tác liên vùng. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng Giao Phong. Phấn đấu giai đoạn 2020-2025 ngành du lịch biển của huyện bình quân đón 550 nghìn lượt khách/năm; doanh thu du lịch bình quân đạt 200 tỷ đồng/năm.

Bên cạnh sự nỗ lực của các địa phương, tỉnh cũng chủ động xác định lộ trình, phương án huy động, sắp xếp nguồn lực để phát triển vùng kinh tế biển và thúc đẩy, khai thác tối đa tiềm năng du lịch biển theo quy mô liên vùng, bao trùm cả 3 địa phương có biển. Trong đó, chú trọng khuyến khích, tạo điều kiện thu hút đầu tư xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch; khai thác tiềm năng, thế mạnh về du lịch của địa phương trong mối tương quan với du lịch của vùng. Trong Chương trình hành động số 01-CTr/TU ngày 12-10-2020 thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX nhiệm kỳ 2020-2025, Tỉnh ủy xác định: Tập trung triển khai Quyết định số 1453/QĐ-TTg ngày 24-9-2020 của Thủ tướng Chính phủ xây dựng Khu kinh tế Ninh Cơ thành trung tâm lớn trong giao thương quốc tế về công nghiệp, thương mại, du lịch và cảng biển của vùng Nam đồng bằng sông Hồng; tạo động lực trong phát triển kinh tế – xã hội của các huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu. Xây dựng và phát triển các đô thị ven biển (Thịnh Long, Quất Lâm, Rạng Đông), trong đó xây dựng đô thị Thịnh Long – Rạng Đông trở thành thành phố trung tâm phía tây nam của tỉnh với chức năng phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch. Từng bước xây dựng không gian kinh tế liên kết khu vực biển huyện Nghĩa Hưng gồm đô thị Rạng Đông Thịnh Long – KCN Dệt may Rạng Đông – Khu chức năng phía nam đô thị Rạng Đông theo hướng phát triển đa ngành, đa lĩnh vực. Tiếp tục đầu tư và hoàn thành các tuyến đường giao thông quan trọng, huyết mạch kết nối khu kinh tế biển của tỉnh với các khu du lịch trong vùng. Bên cạnh đó, tiếp tục phát triển các trung tâm vui chơi, giải trí để khai thác những điều kiện, lợi thế về cảnh quan, sinh thái, các giá trị văn hoá, tâm linh; cải tạo, nâng cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ tại các khu du lịch truyền thống. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động phát triển du lịch; có chế độ ưu đãi phù hợp để thu hút nhân lực du lịch có trình độ cao, chuyên nghiệp về công tác tại địa phương; ưu tiên nguồn nhân lực là người dân địa phương phục vụ du lịch cộng đồng. Tạo điều kiện để doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin trong du lịch, áp dụng các giải pháp và công nghệ du lịch thông minh để cải thiện chất lượng dịch vụ, tăng trải nghiệm của khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của ngành. Nâng cấp trang thông tin điện tử về du lịch Nam Định; kết hợp sử dụng các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Youtube, Facebook, Instagram… để xây dựng hình ảnh và phát triển thương hiệu du lịch biển Nam Định. Đổi mới cách thức, nâng cao hiệu quả xúc tiến và quảng bá du lịch trong và ngoài nước, đảm bảo tính thống nhất, chuyên nghiệp, hiệu quả, giới thiệu được các sản phẩm du lịch đặc sắc, hấp dẫn của địa phương đến du khách và nhà đầu tư; chú trọng kết hợp nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm với các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch biển để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành du lịch trong giai đoạn mới./.

Bài và ảnh: Thanh Thúy

 

Hiệu Quả Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Biển Đảo Việt Nam

Hoàng hôn trên biển Bãi Dài Phú Quốc (Ảnh: Pinterest)

Với sự ra đời và đi vào thực hiện của Nghị định số 09-NQ/TW về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, kinh tế biển tại nhiều vùng đã có những bước phát triển toàn diện, tiêu biểu trong đó phải kể đến đảo ngọc Phú Quốc. Sự bùng nổ của kinh tế du lịch đã giúp nơi đây trở thành huyện “giàu nhất” tỉnh Kiên Giang và là điểm sáng của cả nước về phát triển kinh tế biển xanh, tận dụng được triệt để lợi thế của du lịch biển đảo.

Bên cạnh đó, theo các số liệu thống kê của tổng cục du lịch thì với lượng khách tăng nhiều trong những năm qua và chiếm tới 70% tổng khách du lịch cả nước, du lịch biển đảo đã và đang là hình thức du lịch chủ đạo, góp phần quan trọng đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam.

Có thể nói chưa bao giờ Phú Quốc lại thu hút nhiều khách du lịch cả trong và ngoài nước như bây giờ. Riêng trong năm 2018 đã có trên 4 triệu lượt khách ghé thăm vượt hơn 1 triệu lượt so với năm 2017.

Nếu đến đảo Ngọc cách đây vài ba năm, ta chỉ thấy một hòn đảo đìu hiu, thưa vắng khách thì giờ đây khi nói đến đảo Ngọc người ta nhớ đến một vùng biển mộng mơ, trong xanh và đầy nên thơ. Để tạo nên cú chuyển mình đầy ngoạn mục đó là nhờ sự lớn mạnh không ngừng của du lịch biển đảo.

Các hệ thống nghỉ dưỡng “mọc” lên san sát khắp vùng đảo Ngọc. Từ chỗ chỉ có những làng chài xơ xác bên bãi biển, ngày nay Phú Quốc đã bước sang đẳng cấp khác khi sở hữu hàng loạt dự án tầm cỡ. Nhiều khu nghỉ dưỡng cao cấp, khu vui chơi giải trí lớn đã được đầu tư xây dựng nhằm phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước như Vinpeal, Safari…

Sự bứt phá mạnh mẽ nhất của huyện đảo Phú Quốc trong những năm qua là đầu tư khai thác tiềm năng du lịch vùng ven biển và hải đảo. Trong đó, nhiều dự án và công trình quan trọng đã được đầu tư hoàn thành và đưa vào sử dụng như: Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước. Kết cấu hạ tầng vùng ven biển, hải đảo cũng được quan tâm đầu tư, như các công trình giao thông, thủy lợi, hệ thống cảng biển, trường học, trạm y tế và các dự án phát triển du lịch mang tầm quốc tế.

Nhờ sự đầu tư quy mô này mà lượng khách du lịch đổ về Phú Quốc ngày càng đông, đặc biệt là khách quốc tế. Năm 2019 số lượng khách ngoại tăng 68,4% so với năm 2017.

Cũng như Phú Quốc, chỉ vài năm trước khu vực ven biển Nhơn Lý – Eo gió chỉ là những đồi cát hoang, trập trùng nắng gió, còn Quy Nhơn chỉ là điểm trung chuyển để du khách dừng chân tạm thời trước khi đến với những địa danh nổi tiếng hơn. Bình Định có thể coi là một địa danh “lạ” trên bản đồ Việt Nam.

Eo Gió (Quy Nhơn) (Nguồn: www.24h.com.vn)

Và sau một vài năm với sự phát triển của kinh tế vùng miền, những dấu hiệu đổi thay đã bắt đầu xuất hiện. Những cồn cát trắng đẹp hơn nhờ sắc xanh của cỏ cây, hoa lá rồi lần lượt là sự ra đời của các khách sạn, sân golf, hồ bơi… Những khu nghỉ dưỡng cao cấp, những khách sạn mọc lên nhanh chóng đã đem lại sức sống mới cho một vùng biển quanh năm chỉ thấy nắng, gió và cát bụi.

Nhờ những thước phim điện ảnh đặc sắc đã tô đậm thêm nét đẹp của Quy Nhơn, biến nơi đây trở thành một địa danh hấp dẫn nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Theo đó, cuộc sông của người dân vùng biển cũng ngày càng được cải thiện, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà. Năm 2018, tỉnh Bình Định đã đón hơn 4 triệu lượt khách, đạt doanh thu 3.301 tỷ đồng, tăng 54,7% so với năm 2017, vượt chỉ tiêu đề ra 35,8%.

Nhờ sự phát triển của ngành du lịch đã tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong tỉnh.

Sự thành công của Phú Quốc, Quy Nhơn đã đánh thức nhiều vùng biển khác như Phú Yên, Hà Tĩnh…tạo đà phát triển cho các vùng miền này.

Có thể nói du lịch biển đảo đã, đang và sẽ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam.

Việt Nam có lợi thế của một nước có vùng biển dài và rộng trên thế giới, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền, có bờ biển dài 3.260 km.

Với nguồn tài nguyên thiên nhiên tiềm năng đó, theo PGS.TS Nguyễn Minh Hòa, Giám đốc Diễn đàn phát triển đô thị bền vững châu Á tại Việt Nam, Ủy viên hội đồng Quy hoạch – Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, trong những năm gần đây, Việt Nam đã dành nhiều sự quan tâm hơn cho biển với các chiến lược phát triển kinh tế biển, phát triển dải đô thị biển và dự án nối liền mạch tuyến đường bộ ven biển chạy qua 28 tỉnh thành bắt đầu từ Quảng Ninh đến Kiên Giang với tổng chiều dài 3.041km được khởi động.

Khi nhận thức về tiềm năng du lịch biển đảo đầy hứa hẹn ngày càng rõ ràng hơn, Đảng, nhà nước cùng nhân dân ta trong những năm gần đây đã đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, du lịch, đặc biệt là hệ thống cơ sở lưu trú ven biển.

Hiện nay, khu vực ven biển đã có hơn 1.400 cơ sở lưu trú cung ứng với gần 50.000 buồng. Nhờ sự đầu tư mạnh về cơ sở vật chất cùng sự ra đời của hàng loạt các dịch vụ giải trí, du lịch biển đã thu hút hàng triệu lượt khách đến tham quan và nghĩ dưỡng mỗi năm.

Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, trong giai đoạn 2000-2010, tỷ trọng khách quốc tế đến Việt Nam du lịch tại các địa phương giáp biển là 75,3%, hay tính trung bình trên 75% khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chọn du lịch biển đảo. Đối với khách du lịch trong nước, tỷ trọng này khiêm tốn hơn song cũng chiếm 54,5% tổng lượng khách du lịch trong nước.

Đặc biệt, kể từ năm 2000, ngành du lịch Việt Nam có sự tăng trưởng khá trong cả doanh thu và số lượt khách du lịch, đóng góp một vị thế quan trọng vào sự phát triển này là nhờ du lịch biển.

Theo các số liệu thống kê, năm 2018, ngành du lịch đã đón khoảng 15,6 triệu khách quốc tế đến, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ du lịch đạt 620.000 tỷ đồng. Theo thống kê, trung bình trên 75% khách quốc tế chọn du lịch biển đảo và 28 tỉnh, thành phố có địa lý giáp biển, đóng góp tới 71,5% tổng doanh thu du lịch lữ hành của cả nước.

Top 20% các địa phương dẫn đầu chiếm tỷ trọng 75,8% tổng doanh thu du lịch lữ hành và trong top này tỷ lệ các địa phương giáp biển đã chiếm đến gần 82%.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) Việt Nam xếp thứ 6/10 nước có tăng trưởng du lịch mạnh nhất thế giới đầu năm 2017 và đứng đầu châu Á về tốc độ phát triển du lịch.

Những thành quả này có được là nhờ sự vào cuộc quyết liệt của tất cả các cấp nhằm thúc đẩy du lịch phát triển trên lộ trình trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

Phát Triển Du Lịch Y Tế Tại Việt Nam

Phát triển du lịch y tế ở Việt Nam có nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức

Du lịch y tế là một xu hướng đang bùng nổ trên thế giới. Cùng với những cường quốc như Anh, Mỹ, Canada; nhiều nước châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc đã chọn đây là một trong những ngành xương sống để thu hút người nước ngoài đến khám chữa bệnh.

Đơn cử, năm 2015, Hàn Quốc được công nhận là thị trường phẫu thuật thẩm mĩ lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Mỹ và Brazil, có giá trị ước tính lên tới 5 nghìn tỷ won, chiếm một phần tư giá trị ngành trên toàn thế giới. Còn ở Nhật Bản, mô hình du lịch thường được ưa chuộng là du lịch chữa bệnh ung thư.

Du lịch y tế ở Việt Nam hiện đang ở giai đoạn bắt đầu

Tại Việt Nam, theo thống kê, trong năm 2018, đã có khoảng 300.000 người nước ngoài đến khám nội trú và 57.000 người được điều trị nội trú. Chỉ riêng TP HCM đã chiếm khoảng 40% thị phần này, với các xu hướng y học cổ truyền, nha khoa và thẩm mỹ. Theo đó, lượng khách nước ngoài đến Việt Nam chữa bệnh kết hợp du lịch tăng dần qua các năm, doanh thu đạt tới 2 tỷ USD.

Để khai thác tiềm năng phát triển du lịch y tế, Sở Du lịch và Sở Y tế TP HCM đã có nhiều chương trình phối hợp cùng thực hiện như năm 2018 xây dựng cẩm nang du lịch y tế, năm 2019 tạo app để tra cứu các dịch vụ khám cữa bệnh giúp du khách đễ dàng truy cập tìm hiểu thông tin, đăng ký các dịch vụ qua internet.

Theo đó, các bệnh viện trên địa bàn TP đã giới thiệu những sản phẩm du lịch y tế dành cho du khách như ứng dụng y học cổ truyền trong làm đẹp thẩm mỹ, với kĩ thuật cấy chỉ trong chăm sóc da và làm đẹp dành cho khách du lịch; tầm soát ung thư phụ khoa và điều trị hiếm muộn dành cho du khách; sàng lọc các bệnh lý về tim mạch và hướng điều trị chuyên sâu dành cho du khách; giới thiệu các gói dịch vụ nha khoa dành cho du khách.

Bệnh viện Bumrungrad (Thái Lan) được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, đạt tiêu chuẩn quốc tế về du lịch y tế

Đơn cử, bác sĩ có thể giao tiếp thành thạo bằng nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hàn Quốc… là yếu tố thu hút người nước ngoài đến khám chữa bệnh của Bệnh viện Răng Hàm Mặt chúng tôi Không chỉ răng hàm mặt, y học cổ truyền, thụ tinh nhân tạo đang là những sản phẩm y tế thu hút du khách. Đặc biệt với lượng lớn ca thụ tinh nhân tạo thành công, thụ tinh nhân tạo của Việt Nam đang trở thành sản phẩm thu hút người nước ngoài đến khám chữa bệnh.

Đến nay, nhiều bệnh viện tại TP HCM đã có quy trình khám chữa bệnh riêng dành cho khách nước ngoài, các gói dịch vụ riêng kèm theo giá cụ thể, tạo thuận lợi cho các công ty lữ hành giới thiệu, chào bán tour cho du khách về các sản phẩm du lịch y tế.

Cần một “nhạc trưởng”

Việc triển khai du lịch y tế sẽ góp phần thu hút thêm khách nước ngoài, tăng từ 10 – 20% tại các bệnh viện. Tuy nhiên, trong khi con số du khách nước ngoài đến Việt Nam có thể nắm bắt dễ dàng, thì số người nước ngoài khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trong nước lại khó thống kê.

Đơn cử, những bệnh nhân người Campuchia khám bệnh ở bệnh viện đại học Y dược vì những bệnh mà nước họ chưa chữa được hoặc chữa bệnh chưa hiệu quả thì có được coi là khách du lịch y tế hay không còn là câu hỏi khó.

Trong số những bệnh nhân này, bao nhiêu người sang khám chữa bệnh rồi du lịch thưởng ngoạn như một du khách y tế thật sự. Do đó, nhiều ý kiến nhận định du lịch y tế Việt Nam mới chỉ dừng ở phát tờ rơi quảng bá.

So với Thái Lan và Malaysia được đánh giá làm du lịch y tế rất bài bản, trở thành ngành mũi nhọn du lịch. Các bệnh viện của họ mở văn phòng đại diện ở các nước, tiếp thị quảng bá qua nhiều kênh, đón khách chu đáo từ sân bay rồi đưa đến bệnh viện, tổ chức lưu trú và tham quan.

Trên thực tế, có rất nhiều rào cản khiến các cơ sở y tế Việt Nam khó làm du lịch y tế, như nhân viên y tế không đủ ngoại ngữ giao tiếp, chữa bệnh không được bảo hiểm y tế nước ngoài thanh toán, và khó khăn nhất vẫn là các cơ sở y tế công lập muốn làm mô hình này phải có chứng nhận chất lượng quốc tế để xây dựng uy tín với du khách.

Bệnh viện quốc tế Bumrungrad (Thái Lan) nổi tiếng thế giới về du lịch y tế, là bệnh viện tư nhân. Nhưng thành công của họ không thể thiếu sự hỗ trợ về chủ trương và chính sách của nhà nước. Đồng quan điểm, theo các chuyên gia Hàn Quốc, du lịch y tế Việt Nam cần sự kết nối, phải được xác định là ngành chủ lực. Tại Busan, Hàn Quốc, một đơn vị là Hiệp hội Du lịch Y tế đã được lập ra, đóng vai trò kết nối du khách cho các bệnh viện và quảng bá ngành y tế của nước nhà ra nước ngoài.

Quả thực, đối với loại hình này, tiềm năng ở Việt Nam đã có. Tuy nhiên, phải chăng vẫn còn thiếu một “nhạc trưởng” để đánh thức sản phẩm du lịch này, hoà nhịp với xu hướng chung của thế giới./.

Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Biển Gắn Với An Ninh Trật Tự Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ

Sự phát triển kinh tế du lịch biển vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm. Nguồn: Internet

Trong quá trình phát triển kinh tế du lịch biển cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế du lịch biển… Bài viết đánh giá vai trò và những hạn chế của các chủ thể trong quá trình phát triển và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các chủ thể trong phát triển kinh tế du lịch biển gắn với an ninh trật tự vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.

Thực tiễn phát triển KTDLB cho thấy, để thu hút và giữ chân được khách du lịch tại điểm đến thì điều kiện mang tính nguyên tắc đó là có sự ổn định về chính trị, sự đảm bảo về an ninh, an toàn cho con người cũng như hoạt động của con người và toàn xã hội. Hơn nữa, trong quá trình phát triển KTDLB luôn phải đối phó với những nguy cơ, thách thức rất lớn về an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Do đó, vấn đề an ninh trật tự (ANTT) luôn được các địa phương coi trọng, nhất là vùng Duyên hải Nam Trung Bộ – một địa bàn trọng điểm về quốc phòng an ninh của cả nước. Theo đó, cơ cấu các chủ thể trong quá trình phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có thể chia thành các nhóm sau:

Nhóm 2: Cơ quan chuyên trách và các lực lượng đảm bảo ANTT trong phát triển KTDLB (Bộ Công an, Sở Công an, Bộ đội biên phòng các địa phương vùng Duyên hải Nam Trung Bộ…)

Nhóm 3: Các DN hoạt động KTDLB ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, bao gồm các DN chuyên ngành Du lịch và du lịch biển (công ty lữ hành, cơ sở lưu trú, đại lý du lịch, công ty chuyên vận chuyển khách du lịch, hãng tàu du lịch biển, nhà hàng du lịch…) và các DN phục vụ du lịch, du lịch biển (sản xuất đồ lưu niệm, phương tiện, thiết bị, đồ dùng cho du lịch biển…).

Nhóm 4: Dân cư địa phương ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.

Nhóm 5: Khách du lịch biển đến vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (bao gồm cả khách tham quan, quá cảnh).

Trong số các chủ thể, lực lượng của ngành Du lịch và Công an có vai trò là nòng cốt trong quá trình phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.

Vai trò của các chủ thể trong quá trình phát triển kinh tế du lịch biển gắn với đảm bảo an ninh trật tự

Thực tiễn phát triển KTDLB vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thời gian qua cho thấy, các chủ thể đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội nói chung và KTDLB nói riêng, đồng thời đảm bảo môi trường xã hội ổn định, an toàn, lành mạnh cho các hoạt động KTDLB và hoạt động kinh tế – xã hội nói chung của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, cụ thể như sau:

Thứ ba, UBND đã chỉ đạo các sở, ban ngành quản lý chặt chẽ các hoạt động KTDLB trên địa bàn, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về du lịch biển, kịp thời tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động KTDLB trên địa bàn. Đồng thời, phối hợp tham gia công tác đảm bảo ANTT trong phát triển KTDLB trên địa bàn, nhằm tạo môi trường du lịch an toàn, lành mạnh và văn minh.

Đặc biệt, để thực hiện tốt các Đề án an ninh du lịch, giải quyết các vấn đề phức tạp về ANTT nảy sinh trong hoạt động du lịch biển, các tỉnh đã thành lập Đội công tác liên ngành đảm bảo ANTT trong hoạt động du lịch trên địa bàn, trong đó có nhiều chủ thể tham gia như: Lực lượng Công an, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội; Phòng quản lý đô thị; Đội Thanh niên xung kích…

Thứ tư, các DN đã thực hiện tốt vai trò của mình trong việc đầu tư phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch biển, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của khách du lịch biển; Công tác xúc tiến quảng bá du lịch có sự chuyển biến ngày càng tăng về quy mô và chất lượng; Hoạt động kinh doanh du lịch có hiệu quả đã đem lại nhiều lợi ích cho Ngành, cho địa phương cũng như toàn xã hội.

Trên cơ sở chính sách phát triển du lịch thuận lợi, thông thoáng, các DN đã phát huy được vai trò của mình trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch biển, tham gia vào các dự án đầu tư du lịch biển, tăng năng lực cạnh tranh của du lịch Việt nam; tăng quy mô, tăng chất lượng dịch vụ du lịch biển; tham gia nhiều loại hình KTDLB như: Kinh doanh lữ hành quốc tế và nội địa, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, phát triển các khu, điểm du lịch biển và các dịch vụ du lịch biển khác. Theo thống kê, 10 năm qua, tăng trưởng lượng khách du lịch đến vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đạt bình quân 17,3%/năm, tổng nguồn thu từ du lịch của các địa phương trong Vùng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 28,3%, đứng thứ 3/7 vùng trong cả nước, tạo việc làm cho nhiều người lao động. Đồng thời, các DN đều cam kết thực hiện phong trào “Toàn dân bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn dân chủ động phòng chống các loại tội phạm” các địa bàn du lịch; các DN đều xây dựng DN đạt tiêu chuẩn “An toàn về ANTT” theo hướng dẫn của Bộ Công an, góp phần xây dựng môi trường du lịch an toàn và lành mạnh trong Vùng.

Bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số tồn tại hạn chế trong quá trình phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong xây dựng hệ thống Luật, ban hành chính sách và đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch cho phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT.

Các chính sách phát triển của Nhà nước đã thông thoáng song độ mở cửa quốc tế chưa cao. Hiện nay Việt Nam mới miễn thị thực cho công dân 24 nước, tức là còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực (Thái Lan miễn thị thực cho 61 nước và vùng lãnh thổ, Malaysia miễn thị thực cho 155 nước và vùng lãnh thổ, Philippines miễn thị thực cho 157 nước và vùng lãnh thổ, Singapore miễn thị thực cho 158 nước và vùng lãnh thổ, Indonesia miễn thị thực cho 169 nước và vùng lãnh thổ). Việc cấp thị thực tại các cửa khẩu còn hạn chế, thời gian lưu trú ít, không quá 15 ngày và chưa áp dụng thị thực điện tử (E-Visa).

Một hạn chế khác là Nhà nước chưa đầu tư khai thác triệt để các lợi thế của Vùng, nhất là cảng biển du lịch, bởi đây là lợi thế lớn nhất về phát triển du lịch biển của Vùng. Thêm vào đó, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của Nhà nước vẫn còn hạn chế, hiệu quả chưa cao trong khi thương hiệu du lịch biển Việt Nam chưa có sức cạnh tranh cao. Thị trường khách du lịch quốc tế còn thiếu thông tin về du lịch biển Việt Nam; quy mô, chất lượng và tính chuyên nghiệp của hoạt động xúc tiến, quảng bá điểm đến du lịch biển còn hạn chế; nguồn lực cho xúc tiến, quảng bá du lịch nói chung còn thấp. Mỗi năm, Việt Nam đầu tư khoảng 2 triệu USD cho xúc tiến, quảng bá điểm đến du lịch quốc gia, trong khi các nước khác đầu tư khoảng 80-100 triệu USD/ năm…

Thứ hai, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong phát triển du lịch chưa thật sự hiệu quả; chính quyền địa phương còn hạn chế trong công tác quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động KTDLB, công tác đảm bảo ANTT; sự phối hợp giữa các sở, ban ngành chức năng còn bất cập, mang tính hình thức; vẫn xảy ra các vụ việc mất ANTT, các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động KTDLB và các vi phạm pháp luật về KTDLB trên địa bàn vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.

Thứ ba, các DN chưa thực sự quan tâm đầu tư vào các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển đạt tiêu chuẩn kỹ thuật cao, thậm chí sản phẩm và dịch vụ du lịch biển không có tính độc đáo, độ an toàn không cao, sức hút thấp, gây nhàm chán, nên khách du lịch đến Vùng với thời gian lưu trú rất ngắn, chi tiêu không cao, hạn chế sự tham gia của khách du lịch khi đến vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực du lịch trong các DN còn hạn chế về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển; thiếu đội ngũ thuyết minh du lịch, hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, uy tín và chất lượng. Chính những hạn chế về nhân lực du lịch đã làm giảm lợi nhuận của DN, thu hẹp thị trường khách du lịch của các DN, chưa đem đến sự hài lòng cho khách du lịch, khó thuyết phục khách quay trở lại và khai thác được thị trường khách mới cho DN rất khó khăn.

Các DN du lịch còn chạy theo lợi ích trước mắt, ngắn hạn chưa chú trọng nhiều đến sự phát triển bền vững về tự nhiên và xã hội; cách tiếp cận về phát triển du lịch bền vững chưa dựa trên lợi ích và sự tham gia của cộng đồng địa phương. Một số công ty đã hoạt động trái phép, vi phạm các quy định pháp luật trong kinh doanh du lịch, gây bất ổn thị trường, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành Du lịch và lợi ích chung của địa phương trong vùng.

Bên cạnh đó, hầu hết các DN du lịch cũng chưa liên kết chặt chẽ, chưa tham gia tích cực vào các tổ chức, hiệp hội và còn hạn chế về năng lực tài chính, trình độ quản lý, thiếu tính chuyên nghiệp, sức cạnh tranh yếu; nhiều dự án du lịch ven biển sau khi được cấp phép đã bị bỏ hoang gây lãng phí…

10 năm qua, tăng trưởng lượng khách du lịch đến vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đạt bình quân 17,3%/năm, tổng nguồn thu từ du lịch của các địa phương trong Vùng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 28,3%, đứng thứ 3/7 vùng trong cả nước, tạo việc làm cho nhiều người lao động.

Thứ tư, dân cư địa phương tham gia vào các hoạt động KTDLB chưa có tính chuyên nghiệp, mang tính tự phát và hoạt động tự do ở các tuyến du lịch biển, đảo; hạn chế về các nguồn lực và kinh nghiệm trên thị trường, mức độ chủ động tham gia vào các hoạt động KTDLB chưa cao; mâu thuẫn về lợi ích của dân cư địa phương và lợi ích của các DN có dự án du lịch biển ngày càng tăng…

Giải pháp nâng cao vai trò của các chủ thể trong phát triển kinh tế du lịch biển gắn với đảm bảo an ninh trật tự

Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, Nhà nước nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đổi mới chính sách phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ như: Chính sách đất đai, tài chính, thuế, ngoại thương (xuất nhập khẩu trang thiết bị), các chính sách hỗ trợ, giảm chi phí yếu tố đầu vào cho các DN du lịch, để tăng sức cạnh tranh trên thị trường (giá xăng, điện, nước…); Mở đường bay trực tiếp kết nối vùng Duyên hải Nam Trung Bộ với các điểm đến trong nước và quốc tế; Chuẩn hóa bộ tiêu chuẩn nghề trong lĩnh vực du lịch. Chính sách miễn thị thực cần mở rộng hơn và tháo gỡ các rào cản để tạo điều kiện về thị thực cho khách quốc tế, Việt kiều đến du lịch biển ở trong Vùng.

Tăng cường đầu tư ngân sách cho các dự án phát triển du lịch biển, phát triển cơ sở hạ tầng vùng biển (cảng biển du lịch, bến du thuyền, giao thông tuyến biển, bãi đỗ xe du lịch, khu vui chơi giải trí, trung tâm mua sắm quốc tế…); Tăng cường ngân sách cho Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch (vốn cấp ban đầu 300 tỷ đồng) để đẩy mạnh xúc tiến quảng bá du lịch; Đầu tư kinh phí đào tạo đội ngũ quản lý nhà nước về du lịch, đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao và hỗ trợ kinh phí đào tạo lực lượng đảm bảo ANTT trên địa bàn vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.

Đẩy mạnh phối hợp giữa các cơ quan quản lý với các DN trong việc khai thác tài nguyên biển, phát triển sản phẩm du lịch biển và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển KTDLB ở địa phương trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ; Phối hợp cùng các sở, ban ngành tạo điều kiện thuận lợi, môi trường kinh doanh bình đẳng, tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh du lịch biển, giảm các chi phí hoạt động kinh doanh du lịch biển, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho DN du lịch biển như: Giảm giá điện, miễn thuế nhập các thiết bị sử dụng cho khách sạn 5 sao, cải tiến quy trình, thủ tục nhập cảnh để rút ngắn thời gian xin thị thực cho du khách…

Ba là, tăng cường quản lý các địa bàn du lịch biển, đảm bảo ANTT trong phát triển KTDLB vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Theo đó, lực lượng công an chủ động nắm bắt tình hình, tăng cường công tác quản lý địa bàn được phụ trách (cơ sở lưu trú, công ty lữ hành, công ty vận tải khách du lịch…), quản lý khách du lịch nước ngoài trên địa bàn du lịch biển; tham gia tích cực vào các tổ phản ứng nhanh, kịp thời xử lý các vụ việc mất ANTT trên địa bàn du lịch biển và các vụ việc xảy ra đối với khách du lịch, đảm bảo môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện; Tăng cường phối hợp với ngành Du lịch trong công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách, pháp luật về phát triển KTDLB, về ANTT ở địa phương; đồng thời, kiên quyết xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức hoạt động không phép, vi phạm pháp luật, hoạt động núp bóng của cá nhân, tổ chức nước ngoài trên địa bàn du lịch biển.

Bốn là, các DN tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; chú trọng đến vấn đề chăm sóc, hỗ trợ và thái độ phục vụ đối với khách du lịch để thu hút khách du lịch trên địa bàn. Theo đó, các DN đẩy mạnh đầu tư nguồn vốn cho phát triển đa dạng các loại sản phẩm và dịch vụ du lịch biển; xây dựng sản phẩm, dịch vụ du lịch biển độc đáo, mang sắc thái riêng cho từng địa phương trong vùng; phát triển thêm sản phẩm, dịch vụ du lịch biển mới, nhằm thu hút các thị trường khách trong nước và quốc tế lưu trú dài ngày trên địa bàn, chi tiêu lớn cho du lịch. Đồng thời, tăng cường đầu tư cho nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng; liên kết, hợp tác với nhau và với các nhà cung ứng thành chuỗi liên kết kinh doanh phục vụ khách du lịch chất lượng cao; đẩy mạnh tuyên truyền cho du khách sự hiểu biết về những giá trị văn hóa, lịch sử, cảnh đẹp thiên nhiên vùng biển, những phong tục tập quán, những thông tin về điểm đến mà du khách trải nghiệm.

Hiện nay Việt Nam mới miễn thị thực cho công dân 24 nước, tức là còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực (Thái Lan miễn thị thực cho 61 nước và vùng lãnh thổ, Malaysia miễn thị thực cho 155 nước và vùng lãnh thổ, Philippines miễn thị thực cho 157 nước và vùng lãnh thổ, Singapore miễn thị thực cho 158 nước và vùng lãnh thổ, Indonesia miễn thị thực cho 169 nước và vùng lãnh thổ).

Cùng với đó, các DN du lịch phải chủ động nắm vững trạng thái tâm lý, nhu cầu của du khách để giải quyết linh hoạt, mềm dẻo những tình huống phức tạp và ngăn chặn kịp thời không để hậu quả xấu xảy ra đối với du khách trong hoạt động du lịch biển; Chủ động xây dựng mô hình tự phòng, tự quản, tự bảo vệ tài sản, bảo vệ du khách và đảm bảo ANTT trên địa bàn; Tăng cường phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng trong phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi vi phạm pháp luật về du lịch biển; Phối hợp trong công tác phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn; xây dựng môi trường du lịch an toàn, lành mạnh và văn minh.

Năm là, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong quá trình phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT trên địa bàn; nâng cao nhận thức của du khách về phát triển KTDLB gắn với đảm bảo ANTT trên địa bàn hướng tới sự phát triển bền vững du lịch biển.

Chính quyền địa phương tăng cường tuyên truyền cho người dân, du khách về những lợi ích của phát triển KTDLB cũng như vai trò của đảm bảo ANTT ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ với nội dung tuyên truyền đơn giản, dễ hiểu, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho dân cư trực tiếp tham gia vào hoạt động phát triển KTDLB có hiệu quả và hưởng lợi từ hoạt động du lịch biển như: Cung cấp dịch vụ ăn uống, lưu trú, các dịch vụ chở khách du lịch thăm đảo, dịch vụ câu cá, kinh doanh đồ lưu niệm, sản phẩm vùng biển, hướng dẫn du lịch, thuyết minh du lịch…

Trong quá trình tham gia vào hoạt động phát triển KTDLB, dân cư cũng cần tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, chủ động, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm; duy trì hoạt động của các tổ an ninh nhân dân, tổ tự quản, xây dựng các cụm dân cư an toàn về an ninh, trật tự vùng biển; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, nâng cao tinh thần cảnh giác, tố giác tội phạm; nắm rõ âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch; chủ động, tích cực phòng ngừa, phát hiện vụ việc và nhanh chóng kịp thời báo với các cơ quan chức năng để có biện pháp giải quyết.

Lê Trọng Bình (2007), Một số giải pháp đột phá phát triển du lịch vùng biển và ven biển Việt Nam, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch Hà Nội;

Đào Ngọc Cảnh (2011), Giáo trình Tổng quan du lịch, NXB Đại học Cần thơ;

Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2009), Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội;

Vũ Mạnh Hà (2014), Giáo trình Kinh tế du lịch, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội;

Phạm Hoàng Hải (2011), Những mô hình phát triển kinh tế hải đảo Việt Nam, NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ, Hà Nội;

Học viện ANND (2012), Kỷ yếu tọa đàm khoa học an ninh biển đông và công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, Hà Nội;

Học viện An ninh nhân dân (2014), Lý luận bảo vệ an ninh quốc gia (tập 4);

Bộ VHTTDL (2016), Báo cáo thực trạng và giải pháp phát triển du lịch Việt Nam (phục vụ Hội nghị du lịch toàn quốc về phát triển du lịch), Hà Nội.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nam Định: Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Biển trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!