Xu Hướng 12/2023 # Phát Triển Du Lịch Xanh Việt Nam # Top 21 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phát Triển Du Lịch Xanh Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Du lịch xanh

Trước hết, chúng ta cần hiểu khái niệm du lịch xanh là gì? Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Có thể nói, phát triển du lịch xanh là chìa khóa để phát triển du lịch có trách nhiệm, đảm bảo du lịch bền vững.

Cốt lõi của du lịch xanh là sản phẩm du lịch xanh. Để đảm bảo là sản phẩm xanh cần đạt các tiêu chí sau: sản phẩm được tạo ra từ các vật liệu thân thiện với môi trường; sản phẩm đem đến những giải pháp an toàn đối với môi trường và sức khỏe; sản phẩm giảm tác động đến môi trường trong quá trình sử dụng; sản phẩm tạo ra một môi trường thân thiện và an toàn đối với sức khỏe. Như vậy, tất cả các dịch vụ, sản phẩm du lịch như tour, sản phẩm, dịch vụ của khách sạn, nhà hàng muốn được công nhận là sản phẩm du lịch xanh đều phải đạt (thực hiện) được các nội dung cơ bản của các tiêu chí trên. Mức độ “xanh” của một sản phẩm du lịch sẽ phụ thuộc nhiều vào mức độ thân thiện môi trường của những yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến tính chất tham gia vào việc hình thành nên sản phẩm du lịch.

Với cách tiếp cận trên, sản phẩm du lịch xanh được hiểu là những sản phẩm du lịch có hàm lượng cao các yếu tố đặc biệt là dịch vụ, thân thiện môi trường, được phát triển phù hợp với các nguyên tắc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Trong xu thế hiện nay, khi sự quan tâm của du khách đến môi trường tự nhiên ngày tăng thì việc phát triển những sản phẩm du lịch xanh có chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo ra tính cạnh tranh và hấp dẫn cao của điểm đến du lịch bên cạnh một số yếu tố khác như mức độ thuận lợi trong tiếp cận điểm đến (thủ tục ra, vào phương tiện); hình ảnh, thông tin về điểm đến.

Du lịch xanh được áp dụng trong hệthống khách sạn, đơn vị vận chuyển, kinh doanh lữ hành, nhà hàng bằng các biện pháp bảo vệ môi trường: xử lý nước thải tránh ô nhiễm, thu gom triệt để rác thải, giảm tiếng ồn, hạn chế sử dụng túi ni lông, trồng cây xanh.

Sự phát triển du lịch xanh ở Việt Nam những năm qua

Việt Nam có tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa – nhân văn rất phong phú, đa dạng. Đó là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch xanh. Mặt khác, Việt Nam cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Do vậy, chúng ta càng cần phải phát triển du lịch xanh, góp phần phát triển một nền kinh tế xanh bền vững.

Thời gian qua, một số địa phương, công ty lữ hành, khách sạn đã có sự chú phát triển du lịch xanh, như một số tỉnh Tây Bắc, Quảng Bình, Nghệ An… phát triển du lịch cộng đồng; Huế phát triển du lịch nhà vườn; Nha Trang phát triển du lịch biển đảo; một số tỉnh Nam Bộ phát triển du lịch miệt vườn. Nhiều công ty lữ hành xây dựng các tour du lịch xanh; khách sạn đạt chứng chỉ xanh…

Tuy nhiên, hoạt động du lịch còn tồn tại một số vấn đề khiến cho du lịch xanh chưa được phát triển, cụ thể: phát triển du lịch chưa gắn với khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, hiệu suất sử dụng tài nguyên thấp; phát triển du lịch chưa gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường; phát triển du lịch chưa tính đến biến đổi khí hậu… Việc phát triển quá nhanh đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường du lịch. Tại nhiều khu, điểm du lịch xuất hiện các chất thải rắn, rác thải, nước thải chưa thu hồi, xử lý triệt để, việc phát triển du lịch làm gia tăng mức độ tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, thay đổi cảnh quan thiên nhiên và thay đổi quân bình môi sinh đối với môi trường sống của sinh vật. Ngày càng có nhiều cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xây dựng trên các đảo không theo quy hoạch, đã làm tăng nguy cơ xói mòn đường bờ biển, làm suy thoái hệ sinh thái biển đảo. Nước thải chưa qua xử lý từ các cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xả trực tiếp vào môi trường, làm tăng mức độ hữu cơ nước biển ven bờ. Sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn ngắn hạn và hạn chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục đích; những tệ nạn xã hội, văn hóa ngoại lai và những hạn chế trong nhận thức về bảo vệ môi trường đã làm giảm hiệu quả kinh tế do du lịch mang lại, làm môi trường xuống cấp, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và sự phát triển bền vững của Du lịch Việt Nam. Đây là nguy cơ chính cho du lịch trong giai đoạn tới.

Bên cạnh đó, vì mục đích kinh tế, với mục tiêu kinh doanh ngắn hạn là nhằm giảm chi phí và tăng thu, tăng lợi nhuận, nhiều công ty du lịch thay vì phải tiến hành điều tra khảo sát xây dựng chương trình tour, đánh giá cung – cầu… để xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với xu thế hướng tới du lịch xanh đã tiến hành việc “sao chép” sản phẩm du lịch của các công ty khác mà chưa thực sự chú ý đến bảo vệ môi trường và sự phát triển lâu dài, bền vững. Đây là tình trạng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam trong phát triển sản phẩm du lịch.

Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: “Tập trung đầu tư phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch có thể là thế mạnh về tài nguyên du lịch của đất nước và của từng địa phương. Ưu tiên phát triển loại hình du lịch gắn với biển, hải đảo; nhấn mạnh yếu tố văn hóa và sinh thái đặc sắc trong sản phẩm du lịch. Tập trung phát triển các khu du lịch biển tầm cỡ, chất lượng cao, tạo thương hiệu và có sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới”.

Những năm vừa qua, khách du lịch đến Việt Nam có xu hướng chọn các tour, các khách sạn, khu du lịch và các dịch vụ, hàng hóa bền vững, có nhãn sinh thái, thân thiện với môi trường. Đó là xu hướng của khách du lịch quốc tế, nhất là khách đến từ các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan. Họ có ý thức và nhu cầu cao về an toàn và sức khỏe, ngày càng nhiều người muốn quay về với thiên nhiên. Theo nghiên cứu của Tổ chức SNV của Hà Lan, 52% du khách có xu hướng thích đặt tour qua các hãng lữ hành được chứng nhận có điều kiện làm việc tốt, tham gia bảo vệ môi trường và hỗ trợ hoạt động từ thiện ở địa phương. Nghiên cứu của Tổ chức Trip Advisor cho thấy, 34% du khách sẵn sàng chi trả thêm để ở những khách sạn thân thiện với môi trường và cho các lựa chọn du lịch bền vững (WEF), 50% du khách quốc tế sẵn sàng chi trả thêm cho những công ty mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương và hoạt động bảo tồn (CESD và TIES). Vì vậy, các cơ sở lưu trú du lịch cần triển khai thực hiện và tập trung tuyên truyền cho những chương trình, dịch vụ thân thiện với môi trường để thu hút khách.

Từ chiến lược, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước ta cũng như xu hướng nhu cầu của du lịch thế giới như trên, có thể thấy rằng việc phát triển du lịch xanh được đặt ra như một nội dung chiến lược quan trọng của Du lịch Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập của Du lịch Việt Nam với khu vực và quốc tế và phát triển du lịch xanh, tăng trưởng xanh là hướng phát triển du lịch bên vững của tương lai.

Để thực hiện được chiến lược trên cần phải thực hiện nhiều giải pháp. Bài viết này chỉ xin nêu một số giải pháp chủ yếu:

Hai là, nhận thức trên cần được biến thành hành động cụ thể trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch, trong thẩm định và thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản phẩm du lịch ở các cấp từ trung ương đến địa phương trên phạm vi toàn quốc.

Những chương trình này cần được xây dựng trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản có định hướng về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đặc thù, đặc biệt chú trọng đến việc khai thác giá trị di sản thế giới gắn với các văn hóa bản địa; các giá trị văn hóa truyền thống của các vùng, miền, các làng quê Việt Nam và gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, nhà nước cần có chính sách khuyến khích tăng cường tính “xanh” trong phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, trong các dịch vụ du lịch với những điều kiện cụ thể ở mỗi nơi như ứng dụng năng lượng gió, mặt trời, sử dụng vật liệu tái chế, vật liệu tự nhiên, chế biến rác thải, xử lý nước thải, giảm thiểu tiêu hao xăng, dầu trong giao thông, trong tiêu dùng, an toàn vệ sinh thực phẩm… hoặc khuyến khích các chương trình bảo tồn và truyền bá văn hóa dân gian, dân tộc trong phát triển du lịch. Cần kết hợp chặt chẽ giữa quá trình xây dựng nông thôn mới với phát triển du lịch xanh.

Ba là, Nhà nước cần xây dựng và ban hành “bộ tiêu chí du lịch xanh”. Trên cơ sở đó các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp du lịch vận dụng trong quá trình đầu tư, quy hoạch và kinh doanh. Đồng thời đó cũng là căn cứ để công nhận sản phẩm du lịch xanh như “tour xanh”, “khách sạn xanh”, “nhà hàng xanh”, “khu nghỉ dưỡng xanh”…

Bốn là, Nhà nước cần tiếp tục mở rộng, phát triển các ý tưởng và tham gia tích cực vào các hoạt động của Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế xanh. Phối hợp với UNESCO để làm tốt hơn công tác bảo tồn, phát huy, quảng bá nền văn hóa Việt Nam ra thế giới. Tiếp cận nhanh những kiến thức xanh và công nghệ sạch của cộng đồng khoa học thế giới, của các nước có nền du lịch xanh phát triển, từ đó vận dụng vào phát triển du lịch xanh Việt Nam. Ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào việc quản lý phát triển du lịch xanh, chú ý đến quản lý sức chứa của các điểm, khu du lịch; lựa chọn các nguồn khách có chất lượng và khả năng thanh toán cao để giảm quá tải, ô nhiễm cho những vùng nhất định. Có kế hoạch đào tạo ở nước ngoài đối với các cán bộ chuyên môn và cán bộ quản lý để quản lý du lịch xanh, tăng trưởng xanh và kinh tế xanh.

Năm là, Nhà nước cũng như doanh nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa và đầu tư xứng đáng cho quảng bá, xúc tiến mạnh hơn về du lịch xanh trong phạm vi toàn xã hội, cho khách du lịch bằng nhiều hình thức khác nhau, phương tiện khác nhau nhằm xây dựng một hình ảnh du lịch xanh Việt Nam, một điểm đến thân thiện thu hút đối với du khách.

Mặc dù có tiềm năng phát triển, song du lịch xanh ở Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu. Đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, du lịch xanh còn là loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức quản lý và khai thác tài nguyên phục vụ cho mục đích du lịch. Do đó, nâng cao nhận thức, có chiến lược, có giải pháp đúng đắn để phát triển du lịch xanh là điều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng.

Phát triển du lịch xanh, tăng trưởng xanh là cơ hội và cũng là thách thức, là mục tiêu quan trọng trong phát triển du lịch bền vững, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

2. Trang thông tin của TCDL Việt Nam, Viện NCPT Du lịch

3. Web: chúng tôi 10/02/2023…

GS.TS. Nguyễn Văn Đính

Phát Triển “Đô Thị Xanh” Tại Việt Nam

(Xây dựng) – Phát triển đô thị xanh là xu hướng phát triển đặc biệt thích hợp với các đô thị có lợi thế vùng khí hậu và địa hình tự nhiên phong phú, đa dạng. Điều này đang thuộc về các đô thị trung bình và nhỏ với lợi thế dễ dàng phát triển thành các đô thị du lịch, đô thị truyền thống làng nghề, cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, hạn chế xây dựng mà vẫn tạo nguồn lực phát triển đô thị, hạn chế việc khai thác tài nguyên theo kiểu làm gia tăng các quỹ đất dành cho xây dựng, dẫn đến bê tông hóa bề mặt đô thị. Bài viết hướng tới đi tìm giải pháp phát triển “đô thị xanh” cho các đô thị trung bình và nhỏ.

Cảnh quan KĐTM Eco Park, Văn Giang, Hưng Yên.

Phát triển đô thị xanh ở nước ta

Quá trình quy hoạch đô thị ở Việt Nam trong nhiều năm qua đã được lập theo các phương pháp thích ứng với thể chế bao cấp theo mô hình quy hoạch tổng thể của khối các nước XHCN từ những năm 30 – 40 của thế kỷ 20, dẫn đến bộ mặt đô thị trên cả nước phát triển giống nhau, không phát huy được yếu tố văn hóa bản địa và mất tính cạnh tranh đô thị. Các đô thị đang phát triển theo chiều hướng mở rộng không ngừng, thành phố của các công trình giao thông, các phương tiện cá nhân, lãng phí tài nguyên, giảm khả năng phát triển bền vững và mất dần tính bản địa của địa phương. Đô thị phát triển với tiêu chí chung là mật độ thấp, dân cư dàn trải, tiêu thụ tài nguyên và ưu tiên phát triển kinh tế bằng mọi giá, do đó hầu hết các mô hình quy hoạch xây dựng đô thị đều dựa trên quy hoạch phân khu chức năng và quy hoạch sử dụng đất chức năng dẫn đến việc lãng phí tài nguyên đất, hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng lớn tới hệ sinh thái và môi trường sống của con người. Trong tương lai, nếu các đô thị vừa và nhỏ của Việt Nam vẫn phát triển theo hướng trên thì kết quả sẽ tạo nên những đô thị kém bền vững, tiêu tốn năng lượng, môi trường sống bị phá vỡ, mất cân bằng sinh thái giống như các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay. Vì vậy, phát triển “đô thị xanh” là xu hướng tất yếu của các đô thị trung bình và nhỏ.

Tại Việt Nam, khái niệm về đô thị xanh còn khá mới, nhiều người vẫn hiểu đô thị xanh là đô thị có nhiều công viên, cây xanh, mặt nước, khá hơn thì có thêm việc sử dụng năng lượng bằng pin mặt trời cho các tòa nhà và trồng cây xanh trên mái. Một số khu đô thị ở thành phố Hà Nội và TP HCM được gọi là đô thị sinh thái hay đô thị xanh cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ có nhiều cây xanh, tổ chức không gian công cộng tốt. Điều đó đúng nhưng chưa đủ để đô thị có thể được gọi là đô thị xanh. Kinh nghiệm của các nước phát triển khi xây dựng đô thị xanh là trong quy hoạch đều tích hợp Quy hoạch xây dựng với sử dụng tài nguyên hiệu quả. Phát triển đô thị trên cơ sở mật độ xây dựng thấp, hệ số sử dụng đất cao, bảo tồn văn hóa bản địa và di sản lịch sử, tiếp tục khai thác có hiệu quả tài nguyên, tạo không gian mở cho đô thị, nâng cao chất lượng và mức độ phổ biến của giao thông công cộng, giảm thiểu giao thông cá nhân đồng thời tích hợp với việc sử dụng đất có hiệu quả.

Phát triển đô thị xanh là xu hướng phát triển đô thị rất phù hợp với các đô thị có lợi thế vùng khí hậu và địa hình tự nhiên phong phú, đa dạng. Các đô thị trung bình và nhỏ có lợi thế về không gian cảnh quan đô thị đa dạng, phong phú, cảnh quan thiên nhiên sông, núi, biển, rừng… đẹp, trên cơ sở đó dễ dàng phát triển thành các đô thị du lịch, đô thị truyền thống làng nghề cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, hạn chế xây dựng mà vẫn tạo nguồn lực phát triển đô thị, hạn chế việc khai thác tài nguyên theo kiểu tăng cường các quỹ đất dành cho xây dựng, bê tông hóa bề mặt đô thị.

Hệ thống tiêu chí phát triển đô thị xanh:

Trong thời gian tới, các đô thị trung bình và nhỏ (có thể tương đương từ loại 3 trở xuống) của Việt Nam nhất thiết phải được chuyển hướng từ quy hoạch xây dựng  đô thị sang quy hoạch xây dựng “đô thị xanh”, phát triển đô thị xanh là giải pháp tổng thể bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống của người dân đô thị. Quy mô của đô thị trung bình và nhỏ thường chỉ khoảng dưới 1 triệu dân, việc điều chỉnh hệ thống hạ tầng kỹ thuật cũng như chuyển đổi mục đích sử dụng đất, quỹ đất dành cho phát triển ít phức tạp hơn các đô thị lớn. Mô hình đô thị trung bình và nhỏ khi được định hướng cho một hình ảnh không gian đô thị xanh sẽ thuận lợi hơn khi vấn đề môi trường còn chưa quá nghiêm trọng và các tiêu chí hướng tới đô thị xanh quan tâm chủ yếu đến việc tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm tài nguyên, hạn chế ô nhiễm và đặc biệt quan tâm sâu sắc đến đời sống tinh thần, văn hóa xã hội của con người là các ưu thế đang có tại các đô thị này.

Tiêu chí đô thị xanh áp dụng tại EU:

– Không gian xanh: Đô thị có mật độ cây xanh cao, tỷ lệ cây xanh/người cao, không gian công cộng, không gian công viên, mặt nước được quan tâm.

– Công trình xanh: Xanh hóa công trình, vật liệu xanh, tiết kiệm năng lượng, ưu tiên tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, sử dụng năng lượng hiệu quả và vật liệu thân thiện môi trường.

– Giao thông xanh: Nâng cao tỷ lệ giao thông công cộng, giảm sử dụng các phương tiện cá nhân, giảm khí thải CO2, sử dụng khí tái chế cho giao thông công cộng.

– Công nghiệp xanh: Công nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch, hạn chế ô nhiễm.

– Chất lượng môi trường đô thị xanh: Môi trường không khí sạch, giảm rác thải, khói, bụi, độ ồn trong đô thị.

– Bảo tồn cảnh quan văn hóa lịch sử danh lam thắng cảnh, cảnh quan thiên nhiên.

– Cộng đồng dân cư sống thân thiện với môi trường.

Tiêu chí thành phố môi trường theo Hiệp định thành phố môi trường của Liên hợp quốc – 2005 (2005, Uuited Nations Urban Environmental Accords).

Tại thành phố San Francisco (Hoa Kỳ), vào ngày 5/6/2005, nhân dịp Ngày Môi trường thế giói UNEP đã tổ chức Hội nghị quốc tế về phát triển thành phố bền vững môi trường, có hơn 100 nước và rất nhiều tổ chức quốc tế tham dự. Trong Hội nghị này “Hiệp định thành phố môi trường của Liên hợp quốc – 2005” (2005, United Nations Urban Environmental Accords) đã được thông qua và công bố. Hội nghị quốc tế này đã đưa ra nhận thức chung là các thành phố trên thể giới đang phải đối mặt với thách thức về ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, và lưu tâm đến tác động xấu của suy thoái môi trường và tài nguyên đối với đời sổng cùa dân đô thị và sức khỏe của nền kinh tế của các thành phố. “Hiệp định thành phố môi trường của Liên hợp quốc – 2005”. Các thành phố đã ký kểt Hiệp định này với thời hạn thực hiện đầu tiên là 7 năm (từ năm 2005 đến năm 2012) để thực hiện chưomg trình hành động bao gồm 7 lĩnh vực riêng biệt và mỗi lĩnh vực lại bao gồm 3 hoạt động, cụ thể 7 lĩnh vực hoạt động như sau:

– Năng lượng: Năng lượng tái tạo; Hiệu quả năng lượng; Biến đổi khí hậu;

– Giám chất thải: Thành phố không chất thải; Trách nhiệm cùa nhà sàn xuất; Trách nhiệm của người tiêu dùng;

– Thiết kế thành phố: Công trình xanh; Quy hoạch đô thị; Nhà ổ chuột;

– Thiên nhiên của thành phố: Công viên, vườn hoa; Phục hồi nơi sinh cư của các loài; Động vật hoang dã;

– Giao thông vận tải: Giao thông công cộng; Phương tiện giao thông sạch; Giảm tắc nghẽn;

– Sức khỏe môi trường: Chất độc giảm; Hệ thống thực phẩm an toàn sức khỏe; Không khí sạch;

– Nước: Cấp nước và hiệu quả; Bảo tồn nguồn nước; Giảm thiểu nước thải:

Thành phố môi trường của ASEAN.

Theo đề xuất của Singapore (2005), Hội nghị các Bộ trưởng Bộ Môi trường các nước ASEAN đã thông qua Chương trình “Xây dựng các thành phố môi trường của các nước ASEAN” và thống nhất giao cho Singapore chủ trì thực hiện Chương trình này. Bốn tiêu chí cơ bản của thành phố môi trường ASEAN là:

– Môi trường nước sạch;

– Môi trường không khí sạch;

-Môi trường đất (bao gồm cả chất thải rắn) sạch;

– Bảo tồn đa dạng sinh học.

Thành phố Hạ Long của Quàng Ninh đã được công nhận là “Thành phố Môi trường ASEAN” năm 2009 và thành phố Đà Nẵng cũng đã được công nhận là “Thành phố Môi trường ASEAN” năm 2011.

Đề xuất giải pháp phát triển đô thị xanh ở Việt Nam

Để đô thị trung bình và nhỏ hướng tới đô thị xanh đáp ứng các tiêu chí trên cần tập trung các vấn đề sau:

Giải pháp xây dựng đô thị nén kết hợp không gian mở:

Giải pháp đô thị nén (compact city) là một lựa chọn quan trọng của đô thị xanh hướng tới mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, bao hàm sự hợp lý về mối liên hệ giữa các thành tố của đô thị có đủ điều kiện bảo đảm chất lượng tiện nghi đô thị và môi trường sống mà vẫn tiết kiệm được nguồn đầu tư và năng lượng cung cấp cho mạng lưới hạ tầng kỹ thuật vận hành phục vụ đô thị. Lựa chọn mô hình phát triển theo hướng tập trung để tiết kiệm đất đai, không chỉ cần thiết vận hành đối với các đô thị mới mà cả các đô thị cải tạo chỉnh trang hoàn toàn có thể tính tới giải pháp này để giảm chi phí năng lượng chủ yếu trong giao thông và vận hành mạng lưới kỹ thuật hạ tầng. Lựa chọn khu vực mật độ xây dựng cao để dành quỹ đất tạo không gian mở dành lại các quỹ đất hợp lý cho cây xanh và công trình công cộng.

Các đô thị trung bình và nhỏ hiện có mật độ thấp do xây dựng thấp tầng, phân bổ dàn trải cần được cải thiện lại cấu trúc, tăng các khu dân cư mật độ cao hoặc trung bình, có quy mô giới hạn bởi các không gian xanh, có thể lựa chọn cơ cấu đơn hoặc đa trung tâm để tổ chức trung tâm, đảm bảo giao thông nối kết nốt từ trung tâm đến trung tâm phụ và các khu vực đô thị. Sự tập trung theo hướng tăng mật độ đô thị cần được cân bằng lại bằng giải pháp đan xen bổ sung vào các khu vực xây dựng đô thị các yếu tố mở để cân bằng lại các tiện nghi khí hậu cần thiết.

Hình thức đô thị nén sẽ tạo thuận lợi trong việc tiếp cận các dịch vụ đô thị, định hướng quy hoạch đô thị có thể dựa trên các nguyên tắc để phân bổ các dịch vụ đô thị. Hình thành các khu vực chủ đạo của một đô thị theo xu thế phát triển đô thị hiện đại có cấu trúc gồm đơn vị ở, các khu vực chuyên biệt và các hành lang không gian. Phân bổ một số chức năng chính như trung tâm đô thị, các khu ở, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, với từng đô thị đều có các yêu cầu khác nhau với những lựa chọn phát triển riêng biệt, tuy nhiên vẫn tuân thủ nguyên tắc chung cho một đơn vị ở bền vững có quy mô 7000 – 8000 người, quy mô đất 40 – 50 ha, mật độ ở 160 – 200 người/ha và khoảng cách đảm bảo đi bộ từ trung tâm đến biển là 5 phút và có phương án tiếp cận mạng lưới giao thông công cộng đô thị tốt.

Nguyên tắc giữ lại tối đa và sử dụng hiệu quả những vùng tự nhiên trong khu vực phát triển đô thị xanh là yêu cầu đối với mọi lựa chọn về hình thái tổ chức không gian đô thị trung bình và nhỏ. Các đô thị này có các đặc trưng riêng bằng cách tổ chức hệ thống sông suối, kênh rạch, đầm hồ, đồi núi, rừng và các thảm thực vật. Khuyến khích cải tạo đô thị tại khu vực trung tâm, tái phục hồi các khu vực tự nhiên như bờ sông, hồ, sông nhỏ, suối qua đô thị đã bị che phủ. Sử dụng một số khu đất nông nghiệp đặc biệt trong phạm vi phát triển đô thị như các khu vườn ươm, vườn cây trái hoặc những thảm thực vật nông nghiệp giá trị đặc biệt. Tổ chức không gian xanh trong đô thị thường mang lại hiệu quả cải thiện điều kiện vi khí hậu cho đô thị, với các đô thị có tỷ lệ cây xanh tối thiểu 10 – 20% diện tích đô thị có thể giảm 3,3 – 3,90c. Đô thị có tỷ lệ cây xanh đạt 20 – 50% diện tích đô thị có thể giảm 5 – 5,60c. Đô thị có 25% diện tích lớp phủ thực vật sẽ làm giảm tới 17 – 57% năng lượng làm mát do hiệu quả che bóng mát và làm ẩm.

Giải pháp mật độ đô thị hợp lí trong sử dụng đất đô thị:

Mô hình xây dựng mật độ cao kết hợp với giải pháp phát triển hỗn hợp sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm đất đai xây dựng. Khu vực mật độ cao nên được bố trí tại khu vực có tiềm năng về thương mại, giao lưu so với các khu vực xung quanh để vừa khai thác hiệu quả của vị trí và hệ thống giao thông vừa để nâng cao giá trị sử dụng đất tại những khu vực như khu trung tâm thương mại đô thị, trung tâm khu ở, dọc các trục thương mại, khu vực cửa ngõ đô thị, đầu mối giao thông… Tuy nhiên cần lưu ý, đối với các đô thị trung bình và nhỏ, các khu vực mật độ cao cũng không phát triển nhà cao tầng với tần suất cao, nếu có cũng chỉ có tính chất như tạo điểm nhấn khu vực nội đô mà thôi.

Tại các khu vực có ưu thế tiếp cận không gian tự nhiên, các khu vực trung tâm, khu dân cư… quỹ đất tiếp giáp với không gian tự nhiên như công viên, hồ nước, đồi, núi nên được xây dựng mật độ cao để tận dụng ưu thế vị trí và cảnh quan tự nhiên, đặc biệt đối với khu vực trung tâm đô thị, khu đô thị. Các giải pháp tạo điều kiện để khu vực có mật độ xây dựng cao nhưng điều kiện vi khí hậu vẫn được duy trì đặc biệt với các đô thị nhỏ khu vực miền Trung Tây Nguyên, với các đô thị lớn không thể có những lợi thế này.

Giải pháp hạ tầng kĩ thuật và giao thông theo hướng hạ tầng xanh, phát triển giao thông công cộng hạn chế phát thải khí CO2.

Phát triển đô thị trung bình và nhỏ theo hướng đô thị nén sẽ đạt được mục tiêu về chi phí xây dựng và vận hành hệ thống cung cấp các dịch vụ hạ tầng kĩ thuật, giảm chi phí năng lượng. Trong giải pháp chiếu sáng đô thị, tiếp cận với các công nghệ sản xuất thiết bị chiếu sáng đô thị có khả năng tiết kiệm năng lượng, sử dụng hệ thống chiếu sáng công cộng bằng pin sử dụng năng lượng mặt trời. Trong giải pháp cấp thoát nước đô thị, cần bổ sung các chiến lược sử dụng các công nghệ xử lí để tái sử dụng nguồn nước thải cho tưới cây, rửa đường, sử dụng cho các thiết bị vệ sinh…Trong giải pháp xử lý rác thải, có chiến lược sử dụng khí bể bioga cho từng khu đô thị để sử dụng khí tái chế cho việc đun nấu cũng như sử dụng cho ô tô công cộng…

Các giải pháp giao thông đô thị cho đô thị xanh cần được thiết kế dựa trên đặc điểm địa hình, tạo trục cảnh quan, hướng chiếu sáng thuận lợi và đồng thời tạo các trục lưu thông không khí cho đô thị. Mật độ lưới đường phù hợp sử dụng đất, tổ chức không gian để tăng hiệu quả đất đai. Qui mô đường và không gian lưu thông đủ điều kiện để tổ chức giao thông công cộng, không gian để đi bộ hoặc xe đạp, giải pháp cây xanh đường phố, mặt lát đường…góp phần cải tạo vi khí hậu và đóng góp bảo vệ các không gian đô thị. Mạng giao thông hợp lí, đô thị phát triển tập trung hơn sẽ tạo cho các dịch vụ cung cấp hạ tầng kĩ thuật cho đô thị hoạt động hiệu quả và giảm được chi phí năng lượng để vận hành mạng lưới. Cấu trúc của hệ giao thông đô thị sẽ quyết định tới khả năng khai thác và sử dụng đất. Đồng thời cơ cấu sử dụng đất sẽ quyết định tới nhu cầu đi lại.

Các mô hình tổ chức giao thông hiệu quả phổ biến hiện nay là: Các khu vực trung tâm thương mại, khu văn phòng, công viên giải trí… phát triển dựa trên tuyến GTCC (TOD) có thể được bố trí tại khu vực có mật độ dân cư cao để khai thác tối đa công suất của hệ thống GTCC, chất lượng dịch vụ cao và giá rẻ có vai trò quan trọng để thu hút ngưòi dân sử dụng GTCC. Với bán kính từ 800-1200m từ điểm đỗ (khoảng 30 ha đất), khu vực phát triển hỗn hợp có hệ thống lối đi bộ, bãi đỗ xe… hoàn chỉnh và thuận tiện từ các nơi tới điểm đỗ, bến GTCC. Hình thành các khu dân cư với hạt nhân là các công trình dịch vụ khu vực gắn bến GTCC, với bán kính tới nơi ở nhỏ hơn 800m, 5 – 10 phút đi bộ (Walking Neighborhood). Công trình công cộng có thể là vườn hoa khu vực, cửa hàng, trường học, công trình văn hoá, giải trí khu vực…

Giải pháp tổ chức không gian xanh, không gian mở đô thị:

Một trong các tiêu chí rất quan trọng của một đô thị xanh là thiết kế không gian xanh cho mục đích giảm chi phí năng lượng, cải thiện vi khí hậu. Lựa chọn bố trí không gian mở có chức năng phục vụ đô thị như các công viên, mặt nước cảnh quan, thảm cây xanh đô thị, khu thể thao, công viên giải trí, công viên văn hóa, khu du lịch, vườn thực vật, vườn ươm, khu bảo tồn thiên nhiên. Các đô thị có đặc trưng địa hình tự nhiên là bán sơn địa hoặc núi cao, có thể bị hạn chế do sự thay đổi cao độ của địa hình tạo ra các vùng vi khí hậu không thuận lợi do bị che chắn, cần được đánh giá và lựa chọn mức độ khai thác, hạn chế xây dựng.

Các không gian mở trong đô thị có hiệu quả cao nhất khi tiếp cận không gian nhà ở và không gian công cộng, tiện nghi cho sử dụng và phân bổ phù hợp với các khối kiến trúc công trình. Không gian mở như các quảng trường, tuyến phố là không gian công cộng gắn với hệ thống giao thông đô thị, đặc biệt giao thông công cộng. Mức độ sử dụng hiệu quả của một không gian mở được xác định theo ngưỡng diện tích để vị trí phù hợp loại hình và bán kính phục vụ. Chỉ tiêu cây xanh đô thị là một chỉ số có hiệu quả cao nhất khi được phân bổ hợp lí trong các khu vực xây dựng tạo nên đô thị xanh. Số liệu sau đây của Pháp có thể tham khảo áp dụng cho đô thị xanh Việt Nam.

Hiện nay các quy định về diện tích bình quân cây xanh của khu đô thị chỉ là mức tối thiểu và giới hạn trong khái niệm “không gian xanh”, chưa làm rõ cách tiếp cận hệ thống không gian trống, trong đó không gian xanh chỉ là một bộ phận cấu thành. Cây xanh trong đô thị được tổ chức thành nhiều cấu trúc khác nhau như hành lang bảo vệ sông suối, đồi cây, công viên, vườn hoa, tuyến cây trục phố, vườn cây gia đình. Trong đô thị xanh nên liên tục có khoảng vườn cây xanh với khoảng cách 200m, với diện tích tối thiểu là 0,1ha sẽ có tác dụng tốt làm mát không khí và tạo điều kiện thông gió tự nhiên của khu vực.

Đối với các đô thị trung bình và nhỏ, không gian thảm thực vật đặc biệt như vườn ươm cây, sản xuất nông nghiệp sạch, rừng tự nhiên… chuyển hoá để có thể tham gia vào không gian đô thị, ven đô thị, trở thành công cụ hiệu quả theo hướng tiết kiệm năng lượng, có tác dụng giảm khoảng cách và chi phí vận tải cung cấp các sản phẩm rau, thực phẩm sạch cho đô thị và phục vụ du lịch.

Sử dụng các yếu tố xanh tự nhiên và nhân tạo phục vụ hạ tầng đô thị kết hợp cải thiện vi khí hậu và có thể làm giảm khối lượng thoát nước mặt, giảm hiện tượng ngập úng trong đô thị. Các hồ đào (khai thác quỹ đất để san nền và xây dựng hồ điều hòa), thảm thực vật vườn ươm… bố trí tại đầu hướng gió chủ đạo, khu vực cửa ngõ đô thị.. Không gian xanh của khu ở còn được tính tới các khoảng trống giữa các khối xây dựng, không gian đó tạo được hướng nắng và hướng gió tốt, xử lí cây xanh trong khuôn viên khu ở sẽ tham gia che mát trực tiếp cho công trình…, đặc biệt giảm nhu cầu năng lượng làm mát và chiếu sáng cho các khu vực cao tầng, mật độ cao.

Dưới tác động của đô thị hóa, các đô thị trung bình và nhỏ của Việt Nam sẽ ngày càng phát triển và đóng góp rất quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tuy nhiên để đô thị phát triển bền vững, cần sớm chuyển hướng để phát triển đô thị theo hướng đô thị xanh, đô thị thân thiện với môi trường tiết kiệm năng lượng và đô thị sống tốt cho tất cả mọi người, trong đó có hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đảm bảo, sử dụng tài nguyên, đất đai có hiệu quả, kết nối cộng đồng tốt và thỏa mãn nhu cầu của người dân sống tại đô thị.

Về chính sách tổng thể, để phát triển đô thị Việt Nam theo hướng xanh hóa và bền vững, đầu tiên cần phải tính toán từ khâu quy hoạch, kế hoạch. Các quy hoạch đô thị phải đảm bảo chất lượng, tầm nhìn và có cách tiếp cận theo hướng đô thị bền vững như đô thị xanh, đô thị sinh thái…Các quy hoạch không gian đô thị phải đảm bảo hài hòa hiệu quả kinh tế – sinh thái, thân thiện môi trường, thuận lợi cho phát triển giao thông công cộng. Đặc biệt, các quy hoạch đô thị cần đi trước một bước theo nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ sinh thái trong đô thị, tạo thêm nhiều không gian cây xanh mặt nước và đảm bảo các khu vực chức năng phải thỏa mãn các tiêu chí về chất lượng môi trường.

Bên cạnh đó, cần đưa quan điểm phát triển xanh và tiêu chí xanh vào công tác quy hoạch, thiết kế, xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị như: cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, cung cấp năng lượng, viễn thông, phát triển mạng lưới giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và không gian xanh đô thị. Sau đó là phải ưu tiên phát triển hạ tầng đô thị xanh với hệ thống giao thông xanh, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải; sử dụng năng lượng tái tạo, đổi mới và sử dụng công nghệ, kỹ thuật, vật liệu sạch. Tiếp cận, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học – công nghệ trong phát triển công trình xanh, đô thị xanh cũng là giải pháp không thể thiếu.

Phát Triển Du Lịch Biển Việt Nam

Published on

Phát triển du lịch biển. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Bãi biển đỏ tuyệt đẹp này nằm ở Bàn Cẩm, tỉnh Liêu Ninh, thuộc đông bắc Trung Quốc. Nơi đây cũng được coi là vùng đất ngập nước lớn nhất và tốt nhất bảo vệ những bãi đầm lầy hiếm có, quý giá của thế giới.

1. PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 4 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS NGUYỄN TỐ UYÊN

2. CƠ HỘI NẰM Ở ĐÂU?

3. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ  Bờ Tây của Biển Đông – biển lớn và thuộc loại quan trọng nhất của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.  Vùng biển rộng 1 triệu km  Biển Đông bao bọc toàn bộ sườn phía Đông và phía Nam Việt Nam  Nhiều đảo, quần đảo

4. QUÀ CỦA TẠO HÓA  Tài nguyên khoáng sản, dầu mỏ. (Mỏ Bạch Hổ ở Bà Rịa – Vũng Tàu).  Hang động, vũng vịnh trên đảo.  Nguồn hải sản phong phú  Nhiều bãi tắm, bờ biển đẹp

5. NHẬN BIẾT ĐƯỢC NHỮNG CƠ HỘI VÀ TIỀM NĂNG NHƯ VẬY, ĐẢNG TA CÓ ĐỊNH HƯỚNG GÌ?

6. CÁC KÌ ĐẠI HỘI TRƯỚC ĐÂY  “Coi trọng phát triển kinh doanh du lịch biển, tổ chức tốt việc cung ứng cho tàu biển nước ngoài và các dịch vụ khác” – (Đại hội đảng IV.)  “Khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên, oo di sản văn hoá phong phú và các lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh du lịch”. – (Đại hội đảng VII.)

7. CÁC KÌ ĐẠI HỘI TRƯỚC ĐÂY  Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch (theo hướng du lịch văn hóa, sinh thái môi trường)  Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung, ở các trung tâm lớn.  Nâng cao trình độ văn hóa và chất lượng dịch vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau. (Đại hội Đảng VIII)

8. CÁC KÌ ĐẠI HỘI TRƯỚC ĐÂY  Đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. – (Đại hội Đảng IX)  “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch”. – (Đại hội Đảng X)

9. TỔNG KẾT  Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, trong đó nội dung liên quan đến du lịch là nền tảng cơ bản và có vai trò quan trọng nhất để ngành Du lịch cũng như các địa phương trong cả nước xác định rõ phương hướng phát triển ngành kinh tế du lịch, trong đó chú trọng du lịch biển, đảo.

10. NHÌN VÀO THỰC TẾ HIỆN NAY

11. DU LỊCH BIỂN Nhiều điểm du lịch biển nổi tiếng đã được đầu tư phát triển như:  Vịnh Hạ Long, bãi biển Trà Cổ, Vân Đồn, Quan Lạn, Minh Châu (Quảng Ninh);  đảo Cát Bà (Hải Phòng);  bãi biển Sầm Sơn (Thanh Hóa);  bãi biển Cửa Lò (Nghệ An);  bãi biển Nhật Lệ (Quảng Bình);  vịnh Lăng Cô (Thừa Thiên-Huế);  Bãi biển Non Nước, Mỹ Khê (Đà Nẵng);  bãi biển Cửa Đại (Quảng Nam);  bãi Dài, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa);  bãi biển Mũi Né (Bình Thuận);  Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu);  đảo Phú Quốc, Hà Tiên (Kiên Giang)..

12. Biển Lăng Cô Huế

13. BÀ RỊA – VŨNG TÀU

14. XÁC ĐỊNH THÁCH THỨC

15. HẠN CHẾ  Trong một thời gian dài, tỷ trọng khách du lịch, thu nhập từ du lịch biển so với du lịch cả nước không có sự thay đổi đáng kể, mặc dù vùng ven biển là lãnh thổ có nhiều thuận lợi hơn những vùng lãnh thổ khác về tài nguyên du lịch.  Du lịch biển Việt Nam vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch, đặc biệt là du khách quốc tế.

16. NGUYÊN NHÂN  Công tác tuyên truyền và quảng bá về du lịch biển Việt Nam lâu nay chưa được quan tâm đúng mức.  Du lịch Việt Nam chưa tham gia các hội nghị, hội chợ chuyên về du lịch biển và du lịch tàu biển trên thế giới.  Không ít địa phương do nóng vội đã đưa ra các chiến lược phát triển thiếu tính bền vững.

17. NGUYÊN NHÂN  Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên ngành du lịch còn thấp, trình độ chuyên môn chưa cao, khả năng giao tiếp kém.  Sự đầu tư của Nhà nước và sự huy động các nguồn vốn phục vụ cho du lịch chưa tương xứng với yêu cầu phát triển  Cơ chế quản lý nhà nước về du lịch chưa toàn diện, chưa chặt chẽ, chưa theo kịp với thực tế phát sinh.

18. BÀI HỌC CÁC QUỐC GIA ĐI TRƯỚC

20. THÁI LAN: CÁC BÃI BIỂN ĐẸP TẠI THÁI LAN Phuket Pattaya Nhảy dù

21. THÁI LAN: CHIẾN DỊCH QUẢNG BÁ VÀ XÚC TIẾN ĐA DẠNG  Ngành du lịch là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu và cao hơn các ngành sản xuất khác.  Khuyến khích phát triển nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ du lịch cả về số lượng và chất lượng  Có những chính sách cụ thể với từng ngành  Thúc đẩy hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân  Khôi phục và giữ gìn các tài nguyên du lịch

22. TRUNG QUỐC

23. TRUNG QUỐC  Du lịch một ngành kinh tế trọng điểm, trụ cột cần ưu tiên đầu tư phát triển.  Trung Quốc phấn đấu đến năm 2023 sẽ trở thành một cường quốc về du lịch trên thế giới  Chủ đề du lịch được sắp xếp theo từng năm

24. NĂM CHỦ ĐỀ 1992 Năm Du lịch Trung Quốc (lần I) 1993 Năm Du lịch phong cảnh 1994 Năm Du lịch di tích văn vật cổ 1995 Năm Du lịch phong tục dân gian 1996 Năm Du lịch nghỉ dưỡng nghỉ mát 1997 Năm Du lịch Trung Quốc (lần II) 1998 Năm Du lịch thành phố – làng quê Hoa Hạ 1999 Năm Du lịch môi trường sinh thái 2000 Năm Du lịch Thế kỷ Thần Châu 2001 Năm Du lịch Thể dục sức khoẻ 2002 Năm Du lịch văn hóa nghệ thuật dân gian Trung Quốc 2003 Năm Du lịch vương quốc ẩm thực Trung Hoa 2004 Năm Du lịch đời sống dân dã Trung Quốc 2005 Năm Du lịch Trung Quốc (lần III) 2006 Nông thôn mới, du lịch mới, thể nghiệm mới, thời thượng mới

25. MALAYSIA : CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI

26. MALAYSIA : CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI

27. MALAYSIA : CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI  Thường xuyên nâng cấp trang thiết bị cho ngành du lịch  Duy trì phát triển văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.  Coi trọng công tác quảng bá sản phẩm du lịch trên cơ sở đa dạng sản phẩm – thỏa mãn khách hàng  Hiện nay Malaysia là quốc gia có nền kinh tế du lịch phát triển vào bậc nhất Đông Nam Á. Chỉ trong vài năm, với chính sách đầu tư hợp lý, ngành du lịch Malaysia đã vươn lên dẫn đầu khu vực.

28. GIẢI PHÁP CHO DU LỊCH BIỂN VIỆT NAM

29. PHẠM VI CẢ NƯỚC  Thẳng thắn nhận diện những hạn chế còn tồn tại.  Tập trung vào một số thị trường tiềm năng, đồng thời tìm thị trường mới.  Du lịch Việt Nam quyết tâm tăng cường bám biển, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững

30. HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU 1. Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng (năng lượng điện, nước sạch, vừa phát triển du lịch, vừa phục vụ nhu cầu của cư dân) 2. Hỗ trợ về giá, thuế cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ liên kết phát triển du lịch với các ngành thủy sản, vận tải biển,… 3. Triển khai các dự án phát triển du lịch biển song song với việc bảo vệ môi trường

31. HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU 4. Tôn vinh văn hóa biển, ẩm thực biển 5. Triển khai tuyến du lịch vì chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc (Hoàng Sa, Trường Sa) 6. Đưa khu bảo tồn biển quốc gia vào danh sách khu bảo tồn thiên nhiên thế giới (UNESCO) 7. Có các chế tài nghiêm khắc xử lí việc khai thác quá mức cho phép hoặc gây ô nhiễm môi trường.

32. PHẠM VI ĐỊA PHƯƠNG CỤ THỂ  PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH  Sản phẩm du lịch gắn với khai thác giá trị văn hóa, tài nguyên nhân văn  Sản phẩm du lịch gắn với thể thao, giải trí, nghỉ dưỡng biển  Sản phẩm du lịch – tham quan, nghiên cứu về sinh thái

33. PHẠM VI ĐỊA PHƯƠNG CỤ THỂ  PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN DU LỊCH  Không gian du lịch sinh thái biển đảo  Không gian du lịch sinh thái ven biển  Không gian du lịch văn hóa – lịch sử  Không gian du lịch nghỉ dưỡng, thể thao, giải trí tổng hợp biển

34. TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH  Móng Cái – Hạ Long – Cát Bà – Đồ Sơn: Tập trung nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc, tiêu biểu là di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long, VQG Cát Bà; các bãi biển nổi tiếng như Trà Cổ, Quan Lạn, Cát Bà…

35. TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH  Huế – Đà Nẵng – Hội An: Tập trung nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc của vùng du lịch Bắc Trung Bộ tiêu biểu là di sản văn hóa thế giới; hệ sinh thái đầm phá lớn nhất Việt Nam; các cảnh quan đặc sắn đèo Hải Vân, Ngũ Hành Sơn…

36. TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH  Văn Phong – Nha Trang – Ninh Chữ – Phan Thiết: Tài nguyên du lịch đặc sắc tiêu biểu vịnh Văn Phong, Nha Trang, Cam Ranh với nhiều bãi biển đẹp như Đạ Lãnh, Nha Trang, Cam Ranh….; các hệ sinh thái biểu, hệ sinh thái cát ven biển; 2 khu du lịch tổng hợp vịnh Văn Phong – Đại Lãnh với Nha Trang và khu du lịch biển chuyên đề Phan Thiết – Mũi Né

37. TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH  Long Hải – Vũng Tàu – Cần Giờ -Côn Đảo: Ngoài lợi thế về tiềm năng du lịch đặc sản mà tiêu biểu là cảnh quan, các giá trị đa dạng sinh học thì đây được xem là không gian du lịch cuối tuần đặc biệt quan trọng của thành phố HCM và phụ cận – thị trường du lịch lớn nhất Việt Nam.

38. TRỌNG ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH  Rạch Giá – Hà Tiên – Phú Quốc: Có vị trí quan trọng đặc biệt đối với phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long với các giá trị đặc sắc về du lịch tiêu biểu là bãi biền Hòn Chông, Mũi Nai, Phú Quốc…; các hệ sinh thái rừng Tràm, rừng nhiệt đới trên đảo, san hô…; các cảnh quan hòn Phụ Tử, quần đảo Phú Quốc….

39. PHÁT TRIỂN ĐỒNG BỘ CƠ SỞ HẠ TẦNG DU LỊCH  Đường bộ  Đường không  Đường sắt  Đường biển

40. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG TƯƠNG LAI NẰM Ở CHÍNH CÁC BẠN! Ý tưởng Quyết tâm Kiên trì, bền bỉ

41. CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE

Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Việt Nam

Theo nhận định của các chuyên gia du lịch, Việt Nam có hệ thống sản phẩm du lịch khá đa dạng và có nhiều điểm mạnh: đa dạng về sản phẩm tại điểm đến (du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch mạo hiểm, du lịch thành phố…); giàu giá trị truyền thống văn hóa với hệ thống di sản, di tích, lễ hội đặc sắc; có thế mạnh nổi trội về du lịch biển đảo; chất lượng dịch vụ, cơ sở lưu trú du lịch ngày càng được nâng cao; giá cả hợp lý; thị trường du lịch nội địa ổn định, tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển du lịch bền vững; có thế mạnh trong việc liên kết phát triển các sản phẩm du lịch nội vùng và liên vùng…

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, sản phẩm Du lịch Việt Nam vẫn tồn tại nhiều điểm yếu như: sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu và trùng lặp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, chưa được khai thác hiệu quả; chưa tạo ra được những sản phẩm du lịch chủ lực đặc thù, phù hợp cho từng phân khúc thị trường khách du lịch… Để khắc phục hạn chế này, các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp du lịch, du khách, cộng đồng dân cư… cần thực thi đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát huy điểm mạnh, hạn chế giảm thiểu những điểm yếu, phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng và thúc đẩy Du lịch Việt Nam phát triển bền vững.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện, Du lịch Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen, sự tham gia của Du lịch Việt Nam trong hoạt động của các tổ chức, cơ chế khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, UNWTO, PATA, GMS, Hành lang kinh tế Đông – Tây… ngày càng trở nên tích cực và hiệu quả. Đây là cơ hội để Việt Nam tiếp cận các thị trường du lịch quốc tế, tiếp nhận những cơ chế đào tạo nguồn nhân lực du lịch, từ đó đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Quan hệ ngoại giao tích cực của Việt Nam với thế giới cũng đang mở ra cơ hội thu hút đầu tư vốn và cộng nghệ vào Việt Nam nói chung và đầu tư du lịch nói riêng… Bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ như: nguy cơ khủng khoảng kinh tế; diễn biến phức tạp an ninh, chính trị trên bình diện quốc tế; sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt… đòi hỏi Việt Nam phải nhạy bén, nắm bắt kịp thời và chính xác những xu hướng của du lịch thế giới; đồng thời, cần nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch với lợi thế quốc gia và sự độc đáo của văn hóa dân tộc để khẳng định mình trong quá trình hội nhập du lịch quốc tế và cạnh tranh toàn cầu.

Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030 xác định ưu tiên phát triển mạnh các sản phẩm du lịch theo ưu thế nổi trội về tài nguyên tự nhiên và văn hóa; mở rộng các loại hình du lịch mới (du thuyền, caravan, MICE, du lịch giáo dục, du lịch dưỡng bệnh, du lịch làm đẹp, du lịch ẩm thực); liên kết tạo sản phẩm du lịch vùng, liên kết ngành hàng không, đường sắt, tàu biển tạo sản phẩm đa dạng; phát triển sản phẩm du lịch theo đặc trưng 7 vùng lãnh thổ, bao gồm:

Vùng trung du, miền núi Bắc Bộ: du lịch văn hóa, sinh thái gắn với tìm hiểu bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.

Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc: du lịch danh lam thắng cảnh biển, du lịch văn hóa, du lịch đô thị, du lịch MICE.

Vùng Bắc Trung Bộ: tham quan tìm hiểu các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa – lịch sử và du lịch đường biên.

Vùng duyên hải Nam Trung Bộ: du lịch nghỉ dưỡng biển đảo, tìm hiểu các di sản văn hóa thế giới, văn hóa biển và ẩm thực biển.

Vùng Tây Nguyên: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa.

Vùng Đông Nam Bộ: du lịch đô thị, du lịch MICE, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch nghỉ dưỡng và sinh thái biển, đảo.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long: du lịch sinh thái, khai thác các giá trị văn hóa sông nước miệt vườn, nghỉ dưỡng và sinh thái biển, đảo, du lịch MICE.

Theo đó,cần có sự đầu tư nghiên cứu để tạo nên các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, có tính đặc thù rõ nét; ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch có thế mạnh như: du lịch biển, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng…; ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, hướng tới thu hút khách chi trả cao và lưu trú dài ngày…

Theo nhận định của Tổ chức Du lịch thế giới, trong những năm tới, du lịch vẫn là ngành có nhiều triển vọng. Xu thế dòng khách quốc tế sẽ tiếp tục chuyển dịch đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Đây sẽ là cơ hội để Du lịch Việt Nam bứt phá ngoạn mục về tăng trưởng khách; hình ảnh thương hiệu du lịch quốc gia, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và nguồn nhân lực… Để làm được điều đó, ngành Du lịch cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau: kiên quyết xử lý các vấn nạn đang tồn tại trong hoạt động kinh doanh du lịch, như làm ăn chộp giật, chặt chém khách, tiến tới chấm dứt một loạt hình ảnh xấu của môi trường du lịch; huy động tổng hợp nguồn lực và đẩy mạnh hơn nữa công tác quảng bá, xúc tiến du lịch theo hướng chuyên nghiệp; thay đổi cách thức xây dựng sản phẩm du lịch để tạo ra các sản phẩm có chất lượng, giàu bản sắc, có sức cạnh tranh cao…

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030;

2. Nguyễn Trùng Khánh (2011), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế;

3. chúng tôi Phạm Trung Lương (2023), Phát triển Du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, V iện Nghiên cứu Phát triển Du lịch;

4. Dwyer L, Forsyth P, Rao P (2000), The price competitiveness of travel and tourism: A comparison of 19 destinations, Tourism Management.

5. J. R. Brent Ritchie, Geoffrey I. Crouch (2003), The competitive destination: A sustainable tourism perspective, CABI.

6. Hassan SS (2000), Determinants of market competitiveness in an environmentally sustainable tourism industry, Journal of Travel.

ThS. Nguyễn Đức Tân

Phát Triển Du Lịch Ẩm Thực Việt Nam

Du khách quốc tế trải nghiệm gói bánh chưng Việt Nam. Ảnh: Hồng Lĩnh

Trong xu thế phát triển ngày càng đa dạng về nhu cầu du lịch, ẩm thực không chỉ đóng vai trò là yếu tố phục vụ khâu ăn uống đơn thuần của du khách, mà còn được xác định là một trong những mục đích chính của các chuyến du lịch.

Theo báo cáo toàn cầu về du lịch ẩm thực của Tổ chức Du lịch thế giới, du khách thường chi trung bình 1/3 ngân sách chuyến đi cho ẩm thực. Ðồng thời, có tới hơn 80% số đơn vị, tổ chức du lịch khi được điều tra đều xác định du lịch ẩm thực là yếu tố chiến lược đối với điểm đến, là động lực quan trọng cho phát triển du lịch. Bên cạnh việc thưởng thức, mang đến những trải nghiệm vị giác khác lạ, ẩm thực còn giúp du khách cảm nhận được nét văn hóa bản địa đặc sắc của từng vùng, miền, địa phương, từ đó tăng cường ấn tượng về điểm đến. Với những quốc gia có nền ẩm thực đa dạng, hấp dẫn, nếu bỏ qua việc tận dụng lợi thế về ẩm thực có nghĩa là đã bỏ qua cả “mỏ vàng” để phát triển du lịch. Du lịch ẩm thực chính là cơ hội lớn để thúc đẩy kinh tế địa phương và đất nước, tạo điều kiện gia tăng chuỗi giá trị trong nông nghiệp, sản xuất chế biến thực phẩm, đồng thời giữ gìn và quảng bá văn hóa quốc gia ra thế giới… Những năm qua, di sản văn hóa ẩm thực được hình thành qua hàng ngàn năm của Việt Nam đã làm say lòng bao khách du lịch nước ngoài khi đến thăm dải đất hình chữ S. Hàng chục món ăn nổi tiếng của Việt Nam như phở, bún chả, bánh mì, nem… đã được các tổ chức thế giới, tạp chí ẩm thực, kênh truyền thông quốc tế uy tín vinh danh. Không chỉ đa dạng, hài hòa, tinh tế, dễ thưởng thức, ẩm thực nước ta còn chứa đựng tính nghệ thuật cao, thể hiện sự khéo léo, tinh tế, nhân văn trong chế biến. Ðiều này cho thấy, Việt Nam có đầy đủ điều kiện và thế mạnh để phát triển thương hiệu du lịch quốc gia một cách bền vững thông qua ẩm thực.

Nhằm khai thác lợi thế của ẩm thực trong phát triển du lịch, thời gian gần đây, một số công ty du lịch trong nước đã bắt đầu xây dựng những tua khám phá ẩm thực cho du khách, như đưa khách đi cùng đầu bếp ra chợ để chọn thực phẩm, cùng tham gia vào quá trình chế biến; hay tổ chức các lớp học nấu ăn (kéo dài nửa ngày, một ngày) với sự hướng dẫn của các đầu bếp nổi tiếng; hoặc dẫn khách tới những khách sạn lớn trải nghiệm món ăn theo yêu cầu… Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thường Quân, Chủ tịch Hội Ðầu bếp Việt Nam (Hiệp hội Du lịch Việt Nam), du lịch ẩm thực mới chỉ bắt đầu được phát huy ở một số địa phương là trọng điểm du lịch như Hà Nội, Hội An (Quảng Nam), Ðà Nẵng, TP Hồ Chí Minh…; các địa phương còn lại dù giàu tiềm năng vẫn lúng túng và gặp khó khăn trong phát triển du lịch ẩm thực. Nhiều người làm du lịch còn hạn chế về kiến thức ẩm thực nên cũng khó để xây dựng những sản phẩm thật sự hấp dẫn. Ðối với hình thức du lịch này, đòi hỏi từ người xây dựng tua tới người dẫn tua, hướng dẫn viên đều phải am hiểu về ẩm thực và văn hóa ẩm thực mới có thể mang đến những trải nghiệm giá trị cho du khách.

Du lịch ẩm thực không chỉ đơn giản là để du khách được thưởng thức những món ăn, đồ uống ngon, độc đáo, mà còn là cung cấp những trải nghiệm, khám phá về bản sắc văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của điểm đến gắn với từng món ăn, đồ uống đó. Nên theo các chuyên gia, việc xây dựng những sản phẩm du lịch ẩm thực cần tính tới khả năng liên kết theo mô hình từ trang trại đến bàn ăn để khách du lịch có được những trải nghiệm thực tế sinh động. Không chỉ dừng lại ở cung cấp món ăn ngon, trải nghiệm, những người làm du lịch cần quan tâm chia sẻ với du khách về không gian ăn, hay những văn hóa ứng xử trong khi ăn theo truyền thống của người Việt, từ đó nâng hành trình khám phá du lịch ẩm thực lên một tầm cao mới, cũng là để quảng bá những nét đẹp trong văn hóa ẩm thực Việt Nam.

Một trong những rào cản lớn nhất để phát triển du lịch ẩm thực hiện nay chính là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là khi Việt Nam nổi tiếng với văn hóa ẩm thực đường phố và phần lớn du khách khi đến nước ta đều muốn khám phá nét văn hóa này. Sản phẩm có hấp dẫn đến mấy mà gây ra sự cố về vệ sinh thực phẩm thì mọi nỗ lực cũng vô nghĩa. Do đó, bảo đảm vệ sinh, an toàn trong lựa chọn, chế biến, cung cấp thực phẩm là yếu tố hàng đầu để phát triển du lịch ẩm thực. Và để thực hiện điều này cần sự phối hợp của nhiều cấp, ngành liên quan. Bên cạnh đó, không thể quên vai trò của khâu quảng bá, xúc tiến du lịch ẩm thực. Trên cơ sở rà soát, hệ thống hóa những món ăn tiêu biểu, đặc trưng của các vùng, miền có khả năng tích hợp, đưa vào xây dựng sản phẩm du lịch, ngành du lịch cần có chiến dịch quảng bá rộng rãi về văn hóa ẩm thực Việt Nam ra thế giới thông qua những sự kiện quốc tế được tổ chức trong nước và ngoài nước, nhất là ở những quốc gia là thị trường du lịch trọng điểm của Việt Nam và những khu vực có đông cộng đồng người Việt sinh sống, học tập. Ðây cũng là cách để Việt Nam từng bước khai thác thành công chuỗi giá trị từ sự kết hợp giữa du lịch, văn hóa và ẩm thực.

Việt Nam Phát Triển Du Lịch Tàu Biển

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh phát biểu khai mạc Hội nghị

Tiềm năng và thực trạng du lịch tàu biển

Việt Nam là quốc gia có lãnh thổ giáp biển lớn ở khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 27/156 quốc gia có đường bờ biển dài trên toàn thế giới với hơn 3260km và hệ thống cảng biển đủ tiêu chuẩn đón các tàu khách quốc tế cỡ lớn như cảng Hòn Gai, Hải Phòng, Chân Mây, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Sài Gòn, Côn Đảo, Phú Quốc cùng hàng trăm bãi biển, vịnh biển đẹp trải dọc từ Bắc chí Nam như vịnh Hạ Long, Trà Cổ, Cửa Lò, Thiên Cầm, Lăng Cô, Mỹ Khê, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu… Ngoài ra, nước ta còn có hàng nghìn hòn đảo trong đó có nhiều hòn đảo nổi tiếng Cát Bà, cù lao Chàm, Côn Đảo, Phú Quốc. Khoảng cách đến các điểm tham quan du lịch chính của Việt Nam đều tương đối gần các cảng biển. Vì vậy, du khách có thể dễ dàng tiếp cận các điểm tham quan và các di sản thế giới như vịnh Hạ Long, cố đô Huế, di tích Mỹ Sơn, phố cổ Hội An… So với các quốc gia trong cùng khu vực, Việt Nam nằm trên tuyến đường giữa hai trung tâm du lịch tàu biển Singapore và Hồng Kông nên có nhiều lợi thế để phát triển du lịch tàu biển. Tuy có nhiều thuận lợi, nhưng trong những năm qua, lượng khách du lịch tàu biển mới chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam: 9% năm 2004, 5,8% năm 2005, 6,3% năm 2006 và 5,43% trong 11 tháng năm 2007.

Những định hướng và giải pháp phát triển du lịch tàu biển

Chính phủ và các Bộ, Ngành đã có nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút khách tàu biển vào Việt Nam như việc cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển; giảm cảng phí cho các tàu vào Việt Nam định tuyến hoặc nhiều lần; mở cửa đảo Phú Quốc và Côn Đảo cho khách nước ngoài vào tham quan du lịch; miễn visa cho khách du lịch đến đảo Phú Quốc trong vòng 15 ngày; giảm lệ phí visa còn 5USD/khách tàu biển; đầu tư, nâng cấp, hiện đại hoá một số cảng biển quan trọng… Theo đánh giá của Vụ trưởng Vụ Lữ hành Tổng cục Du lịch Vũ Thế Bình, năm 2007 hứa hẹn sự thành công đối với du lịch tàu biển với tốc độ tăng trưởng 11 tháng đạt 27,9%, tương đương 207.162 lượt khách. Trong tháng 12/2007, các doanh nghiệp đón khách tàu biển của Việt Nam sẽ liên tục đón nhiều tàu du lịch đến Việt Nam, trong đó Saigontourist ký tiếp được hợp đồng với hãng tàu biển Star Cruise sau 2 năm không đưa khách đến Việt Nam. Riêng đối với thị trường khách du lịch tàu biển Trung Quốc ước đạt 100.000 lượt khách, chiếm 44% tổng lượng khách du lịch tàu biển tới Việt Nam trong năm 2007. Kể từ năm 2006 đã có các chuyến tàu từ Bắc Hải, Hải Nam tới Hạ Long và sắp tới sẽ có thêm các tuyến du lịch đường biển từ Trung Quốc tới các tỉnh miền Trung nước ta.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Du Lịch Xanh Việt Nam trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!