Xu Hướng 3/2023 # Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Di Sản Tại Việt Nam Và Một Số Thách Thức Đối Với Chương Trình Đào Tạo Thuyết Minh Viên – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr) # Top 3 View | Tuyensinhtdnceovn.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Di Sản Tại Việt Nam Và Một Số Thách Thức Đối Với Chương Trình Đào Tạo Thuyết Minh Viên – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr) # Top 3 View

Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Di Sản Tại Việt Nam Và Một Số Thách Thức Đối Với Chương Trình Đào Tạo Thuyết Minh Viên – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr) được cập nhật mới nhất trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

   Với ngành du lịch đang được chú trọng và tập trung đẩy mạnh để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Việt Nam đặc biệt trở thành nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để phát triển du lịch.Tiềm năng của các di sản văn hóa đã và đang phát huy mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Chính phủ Việt Nam cũng định hướng khai thác các di sản văn hoá phục vụ phát triển du lịch.Di sản văn hóa và du lịch di sản văn hóa được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật, chủ trương, chính sách và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, đặc biệt trong: Luật Du lịch; Luật Di sản văn hóa;Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đưa ra mục tiêu tổng quát: “…phát triển du lịch mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc…”, văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu trong phát triển du lịch; sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc là yếu tố cuốn hút và nâng cao sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Chiến lượccũng đưa ra các mục tiêu phát triển du lịch phải hướng tới góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Việt Nam; lấy du lịch là động lực, tạo nguồn lực để đẩy mạnh bảo tồn văn hóa; nguồn thu từ du lịch hướng tới đóng góp tích cực vào công tác bảo tồn, đồng thời tăng cường kiểm soát những tác động từ hoạt động du lịch lên các thiết chế văn hóa. Mục tiêu phát triển du lịch văn hóa cũng được nêu ra trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2016. Trong đó nêu rõ:Đưa du lịch văn hóa trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Đến năm 2020, ngành du lịch văn hóa chiếm từ 10-25% trong tổng số 18-19 tỷ USD doanh thu từ khách du lịch. Đến năm 2030, du lịch văn hóa chiếm từ 15-20% trong tổng số 40 tỷ USD doanh thu từ khách du lịch. Vì vậy, du lịch văn hoá cũng được xác định là 1 trong 4 sản phẩm du lịch chính của Việt Namtại Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch.    Năm 2016, Việt Nam đã đón 10triệu lượt khách du lịch quốc tế và 62 triệu lượt khách du lịch nội địatrong đó, khách du lịch đều lựa chọn tham gia hoạt động tham quan và tìm hiểu cácdi tích văn hoá-lịch sử và tham dự các lễ hội văn hoá, theo Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam, hoạt động thăm quan di sản tại Việt Nam là hoạt động được khách du lịch quốc tế ưa thích thứ 2 chỉ sau nghỉ dưỡng tắm biển.Có thể thấy, vai trò của các di sản văn hóa đã và đang phát huy mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển chung của ngành du lịch Việt Nam. Doanh thu du lịch thông qua bán vé các loại hình dịch vụ tại các điểm du lịch có Di sản văn hóa thế giới ngày càng tăng, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương. Những điểm đến có di sản văn hoá thế giới đã trở thành điểm nhấn quan trọng trên bản đồ du lịch Việt Namvà là điểm-phải-đến của khách du lịch, đặc biệt là du khách quốc tế, như Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình), Quần thể di tích cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), Khu thánh địa Mỹ Sơn và Phố cổ Hội An (Quảng Nam).Sản phẩm du lịch di sản văn hoá tại Việt Nam khá đa dạng và hấp dẫn như hoạt động tham quan di sản, nghiên cứu văn hoá lịch sử thông qua di sản, tìm hiểu và trải nghiệm văn hoá truyền thống… Bên cạnh đó, sản phẩm du lịch di sản văn hoá còn là yếu tố tạo nên nét khác biệt cho hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam, kết nối và đa dạng hoá các tour, tuyến du lịch.    Việc đi du lịch hiện nay không chỉ đơn thuần là thăm thú cảnh quan, mà du khách còn có nhu cầu tìm hiểu khám phá những nét độc đáo của truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của các điểm đến. Chính vì vậy, bên cạnh những hướng dẫn viên du lịch của các công ty lữ hành, đội ngũ những người làm công tác thuyết minh tại điểm là vô cùng cần thiết và quan trọng giúp du khách nói chung, nhất là đối với du khách quốc tế khi đến với Việt Nam hiểu biết sâu về những giá trị văn hóa lịch sử của mỗi một địa danh, mỗi di tích. Thuyết minh viên di sản là những người làm công tác thuyết minh, hướng dẫn giới thiệu tuyên truyền – giáo dục tại các điểm di tích lịch sử văn hóa, các khu bảo tồn thiên nhiên, các bảo tàng…, có kiến thức chuyên sâu về khu du lịch, điểm du lịch được giao quản lý. Số lượng di sản văn hóa rất lớn của Việt Nam đồng nghĩa với việc có hàng chục ngàn thuyết minh viên đã và đang hoạt động tại các điểm du lịch, các bảo tàng, khu di tích. Đội ngũ này đang âm thầm đóng góp công sức, trí tuệ của mình nhằm mục đích phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, giới thiệu với du khách trong nước và bạn bè quốc tế về những nét đẹp của đất nước và con người Việt Nam. Chính vì thế công tác đào tạo thuyết minh viên di sản là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài.Một trong những nhiệm vụ và giải pháp được đưa ra trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đó là “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch văn hóa, đặc biệt đối với nhân lực quản lý, hướng dẫn viên, thuyết minh viên và nhân lực phục vụ trực tiếp khách du lịch. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề du lịch văn hóa theo tiêu chuẩn nghề ASEAN”.    Thời gian qua Tổng cục Du lịch Việt Nam đã triển khai thực hiện khá nhiều giảipháp nhằm từng bước tiêu chuẩn hóa đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch. Tranh thủ sự hỗ trợ của Liên minh châu Âu (EU) và UNESCO về kỹ thuật, kinh phí để xây dựng các chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, ngoại ngữ cho các hướng dẫn viên, thuyết minh viên. Tổng cục Du lịch cũng đã tập trung nghiên cứu, xây dựng được một bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam (VTOS) cho 13 nghề, trong đó có nghiệp vụ hướng dẫn du lịch và thuyết minh viên du lịch. Thời gian tới, Tổng cục Du lịch sẽ phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội xây dựng và công bố các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, trong đó có nghề thuyết minh viên du lịch. Một số tổ chức quốc tế cũng đã và đang hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng chương trình và đào tạo thuyết minh viên di sản. Điển hình là Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) xây dựng Khóa đào tạo giảng viên nguồn chương trình hướng dẫn viên du lịch tại các khu Di sản thế giới, đã được tổ chức tại các địa điểm có nhiều di sản văn hóa nổi bật của Việt Nam là Hà Nội, Quảng Nam, Huế, Đà Nẵng,…    Thực trạng hiện nay là trình độ của đội ngũ thuyết minh viên ở các điểm du lịch không đồng đều, thậm chí còn chênh lệch nhau khá xa giữa các vùng miền, các địa phương. Trình độ của đội ngũ thuyết minh viên hiện nay cũng khá da dạng phong phú, có thuyết minh viên có trình độ đại học, trên đại học được đào tạo cơ bản (đội ngũ này phần lớn làm việc tại các di tích và bảo tàng lớn…). Tuy vậy, cũng có thuyết minh viên có trình độ văn hóa thấp chưa qua các lớp đào tạo, họ làm thuyết minh từ vốn hiểu biết, tự học hỏi từ công việc chuyên môn hằng ngày, hoặc qua truyền miệng… (đội ngũ này phần lớn ở các địa phương hoặc vùng sâu, vùng xa). Đội ngũ thuyết minh viên hiện có cũng đang được đào tạo ở nhiều chuyên ngành đa dạng khác nhau: lịch sử, văn hóa, Việt Nam học, du lịch…Điều này dẫn đến việc thuyết minh viên tại nhiều địa phương thiếu nền tảng kiến thức văn hóa, yếu về kiến thức lịch sử. Một hạn chế khác của các thuyết minh viên tại Việt Nam là trình độ ngoại ngữ. Với những thuyết minh viên biết ngoại ngữ thì đa phần chỉ biết tiếng Anh, thuyết minh viên biết tiếng Pháp, Trung Quốc còn ít và tiếngTây Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc rất ít…    Việt Nam đang hướng đến trong thời gian tới sẽ có chương trình đào tạo đạt chuẩn dành cho thuyết minh viên du lịch. Tuy nhiên, việc áp dụng một chương trình đào tạo hướng dẫn viên di sản chung cho tất cả các địa phương tại Việt Nam sẽ có một số khó khăn và thách thức như sau: – Nhiều địa phương còn đang thiếu cơ sở đào tạo chuyên ngành về du lịch và về nghề thuyết minh viên. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến năm 2016, tại 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam có 156 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có: 48 trường đại học; 43 trường cao đẳng và cao đẳng nghề. Hiện nay, các cơ sở đào tạo còn gặp nhiều khó khăn trong việc trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị trong việc đào tạo và thực hành. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo du lịch tại Việt Nam còn thiếu giáo viên/giảng viên đạt chuẩn để giảng dạy chương trình đào tạo thuyết minh viên. Khóa đào tạo giảng viên nguồn chương trình hướng dẫn viên du lịch tại các khu Di sản thế giới của UNESCO là một giải pháp để giải quyết vấn đề này, tuy nhiên chương trình này mới chỉ được thực hiện trong một quy mô hẹp và chưa đươc nhân rộng.    – Cần sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các cơ sở đào tạo, điểm du lịch và công ty lữ hành để các thuyết minh viên được đào tạo gắn với thực tế và có khả năng phát huy nghề nghiệp. Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực do các cơ sở đào tạo cung cấp cho thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng.    – Bên cạnh chương trình đào tạo mới, Việt Nam cũng cần có chương trình đào tạo bổ sung và đào tạo nâng cao cho đội ngũ thuyết minh viên hiện có. Điều này thực sự cần thiết do thực trạng chênh lệch về trình độ của đội ngũ thuyết minh viên giữa các vùng miền và các địa phương. Hiện nay các chương trình đạo tạo này vẫn thường do các địa phương tự xây dựng và tổ chức.    Việt Nam đang đề ra mục tiêu đến năm 2020 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia. Và du lịch di sản văn hóa, một trong những sản phẩm du lịch được đánh giá là thế mạnh của Việt Nam, sẽ phải có vai trò rất lớn trong sự tăng trưởng đó, như được đề ra trong Chiến lược và Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Để nâng cao hình ảnh của di sản Việt Nam và chất lượng sản phẩm du lịch tại các điểm di sản, nâng cao chất lượng đội ngũ thuyết minh viên tại các điểm du lịch di sản là việc quan trọng và hết sức cần thiết. Tuy nhiên với thực trạng chưa có được một chương trình đào tạo thuyết minh viên đạt chuẩn và thống nhất trên cả nước; thiếu cơ sở đào tạo và người giảng dạy, việc đào tạo và phát triển đội ngũ thuyết minh viên di sản có chất lượng cao tại Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn.

ThS. Đinh Thị Hồng Nhung – Phòng Quản lý khoa học & Hợp tác quốc tế

Nghiên Cứu Kinh Nghiệm Trong Định Hướng Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Của Một Số Nước Asean – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr)

   1. Thái Lan – Văn hóa Thái là lợi thế cạnh tranh trong phát triển sản phẩm du lịch

   2. Singapore – Du lịch MICE khẳng định thế mạnh   Singapore là một quốc đảo nhỏ, tài nguyên hạn chế, nhưng đã biết phát huy triệt để tiềm năng, thế mạnh về vị trí địa lý và nguồn lực con người để có những bước phát triển vượt bậc. Diện tích quốc đảo chỉ có 710 km2 nhưng có đến 5,2 triệu người đang sinh sống, làm việc ở đây, trong đó có gần 2 triệu người nước ngoài. Trong các thành công của Singapore thời gian qua phải kể đến sự thành công của chính sách phát triển du lịch phù hợp cho từng giai đoạn của Chính phủ Singgapore.   Từ năm 1965 đến nay, Singapore đã hoạch định chiến lược, xây dựng 6 kế hoạch phát triển du lịch khác nhau, đó là: “Kế hoạch Du lịch Singapore” (năm 1968), “Kế hoạch Phát triển du lịch” (năm 1986), “Kế hoạch Phát triển chiến lược” (năm 1993), “Du lịch 21” (năm 1996), “Du lịch 2015” (năm 2005), “Địa giới du lịch 2020” (năm 2012).

   Với “Kế hoạch phát triển du lịch” (năm 1986), Singapore chủ trương bảo tồn và khôi phục các khu lịch sử văn hóa như: Khu phố của người Hoa, Tanjong Tagar, Little India, Kampong Glam, sông Singapore. Với “Kế hoạch Phát triển chiến lược” (năm 1993), Singgapore tập trung phát triển các sản phẩm du lịch mới như: du thuyền, du lịch chữa bệnh, du lịch giáo dục, du lịch trăng mật; phát triển các thị trường du lịch mới; tổ chức các lễ hội lớn mang tầm cỡ quốc tế; tập trung phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch; trao các giải thưởng về du lịch; giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về du lịch…   Năm 1996, Singapore triển khai “Du lịch 21”, chuẩn bị và thực hiện tầm nhìn dài hạn cho sự phát triển của du lịch trong Thế kỷ 21, với các chiến lược thị trường du lịch mới nổi, chiến lược du lịch khu vực, chiến lược phát triển sản phẩm du lịch mới, chiến lược nguồn vốn du lịch, chiến lược “Nhà vô địch du lịch Singapore”.   Trong “Du lịch 2015”, Singapore tập trung phát triển các thị trường chính với phương châm tạo sự hiểu biết tốt hơn về Singapore, phát triển Singapore thành một điểm du lịch “phải đến”, cải thiện tiêu chuẩn dịch vụ nhằm cung cấp các dịch vụ đáng nhớ cho khách du lịch, nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch, phát triển các doanh nghiệp du lịch và nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp, phát triển các sản phẩm trọng tâm của du lịch… Năm 2012, Singgapore chi 300 triệu đô Sing để tổ chức các sự kiện du lịch, chi 340 triệu đô Sing phát triển các sản phẩm du lịch, chi 265 triệu đô Sing phát triển nguồn nhân lực du lịch. Đến năm 2015, Singapore đầu tư cho Quỹ phát triển du lịch là 2 tỷ đô Sing, dự kiến đón khoảng 17 triệu khách du lịch quốc tế và doanh thu từ du lịch khoảng 30 tỷ đô Sing.   Singapore xây dựng chiến lược phát triển du lịch MICE, xác định đưa quốc gia này trở thành cường quốc dẫn đầu trong khu vực Châu Á về du lịch hội nghị hội thảo. Đồng thời, Singapore sẽ phát triển trở thành trung tâm dịch vụ và nghỉ dưỡng của khu vực. Chiến lược này xác định ra các dự án du lịch lớn cần phải thực hiện như Giải đua công thức 1 (Formula OneTM Singapore Grand Prix), Khu phức hợp nghỉ dưỡng (Integrated Resorts) và Vòng đu quay khổng lồ (Singapore Flyer)…   Xác định phát triển du lịch MICE là trọng tâm: với lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, là trung tâm của các hoạt động giao thương lớn trong khu vực, Singapore xác định phát triển du lịch MICE là trọng tâm của chiến lược phát triển sản phẩm du lịch.   Từ năm 1971, quốc gia này đã xúc tiến hình ảnh “Trung tâm hội nghị của phía Đông”, cùng với việc thành lập Cục phát triển Hội nghị Singapore năm 1974 (Singapore Convention Bureau – SCB) với nhiệm vụ xây dựng nhận thức cho cả thế giới về châu Á – một điểm đến tổ chức hội nghị hội thảo và nghĩ đến Singapore – điểm đến MICE tốt nhất ở Châu Á.   Xác định được mục tiêu, Singapore bắt tay với các khách sạn lớn hàng đầu thế giới phát triển các trung tâm hội nghị, các nhà đầu tư tư nhân để phát triển các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Đến cuối những năm 1990, Singapore đã có đủ các cơ sở hạ tầng, VCKT cần thiết để tổ chức các sự kiện MICE tầm cỡ thế giới như Suntec Singapore International Convention, Exhibition Centre và the Singapore Expo.    Đến năm 1996, SCB đổi tên thành Cục phát triển Hội nghị và Triển lãm Singapore (SECB) để mở rộng sang lĩnh vực tổ chức triển lãm. Cùng với đó là sự hợp tác với các bên đối tác là doanh nghiệp trong lĩnh vực tổ chức sự kiện, lữ hành để nâng cao chất lượng trải nghiệm du lịch MICE cho khách hàng là người đi du lịch công vụ.   Hiện nay, Singapore đã trở thành điểm đến dẫn đầu thế giới về du lịch MICE, lĩnh vực này đóng góp hơn 30% vào tổng thu từ du lịch của quốc gia. Dù vậy, quốc gia này vẫn nỗ lực để thay đổi, phát triển không ngừng, để duy trì vị trí dẫn đầu.

   3. Malaysia – du lịch nghỉ dưỡng

   4. Indonesia – du lịch sinh thái và cộng đồng   Indonesia đã xây dựng xong chiến lược tổng thể phát triển du lịch đến năm 2025, theo đó tư tưởng chính sẽ tập trung nâng cao chất lượng du lịch. Mục đích của chiến lược phát triển du lịch đến năm 2025 của Indonesia sẽ phát triển khoảng 50 điểm đến quy mô quốc gia với một số “hành lang du lịch”, lượng khách quốc tế dự kiến đến thời điểm này dự kiến đạt 25 triệu lượt người. Cùng với chiến lược là một kế hoạch phát triển đến năm 2015 cũng đã hoàn tất với nội dung tập trung phát triển 3 loại hình du lịch chính là du lịch sinh thái, du lịch nông thôn và du lịch biển. Đối với du lịch nông thôn sẽ triển khai trên 54 điểm, du lịch sinh thái là 50 điểm ở các vườn quốc gia.

   Indonesia có chủ trương phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Chính phủ hỗ trợ phát triển bằng việc cho thuê đất với giá rẻ để cộng động làm du lịch, đồng thời hướng dẫn và đào tạo cộng đồng về nghiệp vụ du lịch. Các sản phẩm chính được định hướng: du lịch di sản, du lịch sinh thái, du lịch đánh golf, du lịch lặn biển, du lịch MICE. Ở Indonesia, Vụ Thị trường của Cục Xúc tiến Indonesia có nhiệm vụ theo dõi diễn biến thị trường, định hướng và tổ chức các hoạt động xúc tiến quảng bà du lịch ở cấp quốc gia. Từ việc theo dõi thị trường và đánh giá tình hình, xu hướng phát triển kinh tế – xã hội và du lịch, Indonesia chuyển hướng thu hút thị trường khách du lịch ASEAN. Ngân sách xúc tiến quảng bá du lịch năm 2010 của Indonesia vào khoảng 40 triệu USD.   Đối với việc phát triển sản phẩm du lịch, đặc biệt tại địa bàn đảo Bali – một trong những điểm du lịch nổi bật của Indonesia thì những thành công chính nằm ở vấn đề như tôn trọng ý kiến, tập tục và tư duy của người bản địa; nâng cao nhận thức về phát triển du lịch theo một quá trình; ban hành các quy định chặt chẽ và rõ ràng về kiến thức, có quan điểm bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống.

ThS. Nguyễn Hoàng Mai – Phòng QLKH&HTQT

Một Số Vấn Đề Liên Quan Đến Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Tỉnh An Giang – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr)

Lễ Bà Chúa Xứ Núi Sam – Nét Tín Ngưỡng Tâm Linh Vùng Châu Đốc

   Một số định hướng chính trong phát triển sản phẩm du lịch của An Giang   Từ những lợi thế về tài nguyên, An Giang cần tập trung phát triển các các dòng sản phẩm du lịch sau để có thể khai thác tốt nhất tài nguyên du lịch, tạo ra sản các sản phẩm du lịch đặc thù, riêng có của tỉnh, qua đó xây dựng được thương hiệu và lợi thế cạnh tranh của du lịch tỉnh An Giang với các địa phương còn lại trong vùng:    + Dòng sản phẩm du lịch gắn với lễ hội:    An Giang là địa phương đã phát triển dòng sản phẩm du lịch văn hóa gắn với các lễ hội truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc rất thành công. Một số sản phẩm du lịch gắn với Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam; Lễ Đôn-ta – hội đua bò Bảy Núi, Lễ Chôl-chhnăm-thmây của dân tộc Khmner Lễ hội văn hóa Búng Bình Thiên;…đã trở lên nổi tiếng và thu hút nhiều du khách. Đặc biệt Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đã trở thành thương hiệu nổi tiếng. Hàng năm, Khu Di tích văn hóa – lịch sử và du lịch Núi Sam đón tiếp khoảng 4 triệu lượt khách, chiếm khoảng 60% tổng lượng khách đến An Giang, đóng góp rất lớn về kinh tế, xã hội và việc làm cho người dân địa phương.   + Dòng sản phẩm du lịch sinh thái ngập nước    An Giang có tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái mà đặc biệt là sinh thái ngập nước. Với sự thành công của Khu bảo tồn thiên nhiên rừng tràm Trà Sư đã gây dựng được thương hiệu nhất định. Tiềm năng khai thác thị trường du lịch này là tương đối lớn. Vấn đề đặt ra là tạo ra được một sản phẩm đặc thù của tỉnh, tránh trùng lắp với các sản phẩm của các địa phương khác trong vùng ĐBSCL vốn đã rất phổ biến.

Tour du lịch tại rừng tràm Trà Sư thu hút khách

   + Du lịch cộng đồng   Những năm gần đây, tỉnh An Giang đang tích cực đẩy mạnh phát triển mô hình du lịch cộng đồng và đã tạo được nhiều điểm đến hấp dẫn. Trong đó có một số điển hình tốt như xã Mỹ Hoà Hưng nằm trên Cù lao Hổ giữa sông Hậu, thuộc địa phận TP. Long Xuyên. Nhờ những cách làm sáng tạo, tỉnh An Giang đã mạnh dạn chuyển đổi mô hình thuần nông sang làm du lịch cộng đồng khá thành công, qua đó cao đời sống, góp phần phát triển du lịch địa phương. Những mô hình du lịch cộng đồng như xã Mỹ Hòa Hưng cần được phổ biến và nhân rộng tại các địa phương có lợi thế phát triển loại hình du lịch này ở An Giang.   + Du lịch thể thao sông nước   Phát triển du lịch thể thao sông nước hiện nay đang thu hút sự quan tâm của nhiều khách du lịch, đặc biệt là những khách du lịch ưa khám phá, mạo hiểm, trở về với tự nhiên. An Giang có nhiều tiềm năng phát triển loại hình du lịch này nhờ vào lợi thế tỉnh có nhiều sông ngòi, kênh rạch. Ngoài ra, tỉnh có nhiều người Khmner sinh sống với lễ Hội đua ghe ngo tại kênh Trà Sư, huyện Tịnh Biên thu hút nhiều vận động viên tranh tài và du khách tham quan, tìm hiểu và trải nghiệm. Bên cạnh loại hình thể thao truyền thống như đua ghe ngo, An Giang có thể phát triển thêm các loại hình du lịch thể thao sông nước hiện đại như: Chèo thuyền kayak, mô tô nước, xuồng su, dịch vụ kéo dù bay…

Đua ghe ngo trên kênh Trà Sư – Lễ hội của người Khmner

   Cần phải dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch An Giang

   Trước hết, cần nhìn nhận việc đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm mang ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và điểm đến, bởi nó có mối quan hệ trực tiếp với sự hài lòng của khách hàng, tới thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp hay điểm đến. Thứ hai, việc đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm có thể tăng lợi thế với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Thứ ba, do yêu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm du lịch ngày càng cao, giá rẻ không còn là tiêu chí hàng đầu đối với du khách mà thay vào đó là chất lượng sản phẩm, dịch vụ và sự đa dạng mới là những yếu tố quyết định. Thứ tư, phải cải tiến sản phẩm du lịch để phù hợp xu hướng tiêu dùng hiện đại, thị trường du lịch cũng như các thị trường khác luôn tuân theo quy luật cung cầu. Ở đó, người tiêu dùng hay khách du lịch đóng vai trò quyết định việc nhà sản xuất hay kinh doanh sẽ phải sản xuất hay kinh doanh mặt hàng nào theo thị hiếu và nhu cầu của khách hàng. Trong khi đó thị trường luôn có những thay đổi mang tính chất xu hướng, có thể dự báo được.Vì vậy cần dự báo, nắm bắt các xu hướng mới của thị trường trong tiêu dùng du lịch để có chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp và hiệu quả. Thứ năm, việc đa dạng hóa sản phẩm phần nào giúp khắc phục, hạn chế những tác động do tính mùa vụ trong du lịch đem tới. Từ đó giúp tăng tính hiệu quả trong khai thác du lịch cũng như chất lượng phục vụ và giảm những tác động không tốt đến môi trường tại các điểm du lịch. Nhìn lại cả năm nhân tố trên có thể thấy sản phẩm du lịch của An Giang thực sự cần cải cách mạnh mẽ cả về sự đa dạng lẫn chất lượng sản phẩm để theo kịp sự phát triển.   Thiếu nguồn lực đầu tư cho phát triển sản phẩm du lịch   Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên, hiện nay sản phẩm du lịch của tỉnh vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách, các khu vui chơi giải trí ít về số lượng, đơn điệu về chất lượng và nghèo nàn về chủng loại, chưa tạo được ấn tượng sâu sắc về sản phẩm đặc thù của du lịch An Giang.   Những nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch thông qua viêc nâng chất lượng khách sạn, nhà hàng, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, dịch vụ vui chơi, giải trí mới chưa thực sự hiệu quả do nguồn lực đầu tư của tỉnh còn hạn hẹp. Bài toán đặt ra là cần huy động nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội, đặc biệt là từ khu vực tư nhân cho đầu tư phát triển du lịch nói chung và sản phẩm du lịch nói riêng, chứ không nên chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách eo hẹp của địa phương. Chính quyền địa phường cần năng động trong việc kêu gọi đầu tư từ các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư. Cần xây dựng cơ chế chính sách, thủ tục hành chính thông thoáng, nhanh chóng và chuyên nghiệp, xây dựng các chính sách ưu đãi đặc biệt cho du lịch để mời gọi các nhà đầu tư.   Liên kết phát triển sản phẩm du lịch   Về liên kết phát triển sản phẩm du lịch, đề án “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù Vùng ĐBSCL” đã được Bộ VHTTDL triển khai đầu năm 2015 đã xác định An Giang năm trong khu vực liên kết giữa các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm (gồm Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu và Hậu Giang – đây là các địa phương chiếm hơn 70% lượng du khách toàn vùng). Thứ hai, liên kết phát triển phát triển sản phẩm sản phẩm du lịch là liên kết quan trọng trong 5 nội dung liên kết của đề Án. Vì vậy, An Giang cần tập trung hợp tác liên kết với các tỉnh, thành phố này đây xây dựng các tour tuyến du lịch mới mới, tạo ra “chuỗi giá trị ngành du lịch” và đặc biệt là chuỗi “sản phẩm du lịch đặc thù”. Bên cạnh việc liên kết phát triển sản phẩm với các địa phương trong vùng, liên kết với thành phố Hồ Chí Minh – thị trường gửi khách quan trọng và liên kết với Campuchia, Thái Lan để tạo thành các tuyến du lịch quốc tế cũng là vấn đề mà An Giang cần phải quan tâm, đẩy mạnh.   Một số kiến nghị với cơ quan quản lý du lịch An Giang về vấn đề quản lý chiến lược sản phẩm du lịch   Trên cơ sở những đánh giá và nhận định chung, sau đây là một số gợi ý trong quản lý đối với chiến lược phát triển sản phẩm du lịch:   – Cần đầu tư xây dựng hoàn thiện hơn nữa cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phản ảnh phần nào chất lượng sản phẩm và tính chuyên nghiệp trong hoạt động du lịch. An Giang cần đầu tư nâng cấp tuy nhiên cần có sự chọn lọc, đánh giá để phối hợp nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia và tránh lãng phí trong quá trình xây dựng cũng như bảo đảm tính toàn vẹn của môi trường và tài nguyên.   – Cần xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm du lịch tỉnh An Giang cho giai đoạn từ nay đến 2025, tầm nhìn đến năm 2030 đề đầu tư, phát triển sản phẩm du lịch một cách cơ bản, dài hạn và có lộ trình.   – Cần xây dựng (hoặc áp dụng) các bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch trong quản lý hoạt động của các doanh nghiệp du lịch, lữ hành.   – Cần xây dựng hoặc áp dụng các bộ công cụ quản lý chất lượng du lịch (tham khảo các bộ công cụ TQM, SERVQUAL, CRIT,…) trong quản lý, điều hành, cần xây dựng giải thưởng du lịch để vinh danh, khuyến khích các doanh nghiệp đã tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều đóng góp cho hoạt động du lịch của tỉnh, cần có chế tài xử lý vi phạm với các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm không đạt chuẩn, làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh thương hiệu du lịch của tỉnh.  – Cần nâng cao vai trò của Sở VHTTDL và Trung tâm xúc tiến du lịch trong xúc tiến, quảng bá, xây dựng hình ảnh thương hiệu du lịch của tỉnh, hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến quảng bá trong và ngoài nước.   – Cần nâng cao vai trò đầu mối của cơ quan quản lý du lịch (Ban chỉ đạo của tỉnh về du lịch; sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) trong việc tập trung hoạch định chính sách phát triển sản phẩm du lịch cho từng địa phương trong tỉnh, khuyến khích, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các điểm đến mới, sản phẩm du lịch mới, sáng tạo, có nhiều tiềm năng phát triển.

Tài liệu tham khảo1, Quyết định số 2227/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”2, Quyết định số 2714/QĐ-BVHTTDL ngày 03/8/2016″ của Bộ VHTTDL về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030″3, Quyết định 1008/QĐ-UBND của UBND tỉnh An Giang về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành du lịch tỉnh An Giang từ năm 2014 đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030”4, Tổng cục Du lịch, Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển Du lịch Vùng Đông bằng Sông Cửu Long”5, TS. Võ Quế – Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, “Biến đổi khí hậu và phát triển du lịch tỉnh An Giang”6, TS. Đỗ Cẩm Thơ, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, “Kinh nghiệm phát triển sản phẩm du lịch một số nước trong khu vực và trên thế giới”7, Tổng cục Du lịch, “Du lịch sẽ là ngành kinh tế mũi nhọn của An Giang”, http://www.vietnamtourism.com/index.php/news/items/179218, Tổng cục Du lịch, Du lịch “An Giang vẫn chưa khai thác hết tiềm năng”, http://www.vietnamtourism.com/index.php/news/items/75719, Du lịch An Giang đang chuyển mình, http://www.saigondautu.com.vn/Pages/20170111/Du-lich-An-Giang-dang-chuyen-minh.aspx

Văn Dương – QLKH

Tìm Hướng Phát Triển Cho Du Lịch Làng Nghề Việt Nam – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr)

1. Giới thiệu sơ lược về Du lịch làng nghề tại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần lấy lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc mỗi quốc gia. Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt, độc đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu sinh động về đất, nước và con người của mỗi vùng, miền, địa phương. Phát triển du lịch làng nghề chính là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và phát triển du lịch. Những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể hiện ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn lao động địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không thể tính được trong ngày một ngày hai.

Làng lụa Vạn Phúc (Hà Nội)

Du lịch làng nghề truyền thống ngày càng hấp dẫn du khách và đang là một hướng phát triển du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, xã hội, hình thức du lịch này còn góp phần bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hoá độc đáo của từng vùng miền, địa phương.

Một địa phương muốn thu hút khách du lịch, tạo ra nhiều loại hình du lịch hấp dẫn đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách thì phải bắt tay vào việc xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch gắn liền với việc khai thác có chiều sâu và khai thác đúng tài nguyên du lịch của địa phương đó.

Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu trong quá trình đi du lịch của du khách, bao gồm:

– Sản phẩm du lịch đặc trưng: đó là những sản phẩm hấp dẫn khách du lịch, tạo ra mục đích của khách du lịch tại điểm đến như: danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, nơi nghỉ mát, chữa bệnh, thăm quan …

– Sản phẩm du lịch cần thiết: là những sản phẩm phục vụ các nhu cầu thiết yếu trong quá trình đi du lịch như: phương tiện vận chuyển, ăn, nghỉ…

– Sản phẩm du lịch bổ sung: là những sản phẩm phục vụ các nhu cầu phát sinh trong quá trình đi du lịch như: cắt tóc, giặt là, massage, mua sắm hàng lưu niệm…

Như vậy, làng nghề vừa là sản phẩm du lịch đặc trưng khi làng nghề đó có khả năng hấp dẫn, thu hút khách, vừa là sản phẩm du lịch bổ sung khi tạo ra những mặt hàng lưu niệm cho du khách.

Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề truyền thống ở Việt Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá trị văn hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng.

Đi dọc chiều dài đất nước hình chữ S, du khách gần như có thể dừng chân ở bất cứ địa phương nào để tìm hiểu về làng nghề truyền thống. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có khoảng hơn 3000 làng nghề thủ công, thuộc 11 nhóm nghề chính là sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá, kim khí.

Lợi thế của phần lớn các làng nghề là nằm trên trục giao thông thuận lợi, cả đường bộ lẫn đường sông nên thuận tiện để xây dựng các chương trình du lịch kết hợp. Có thể kế đến các địa phương khá năng động trong việc phát huy lợi thế làng nghề để phát triển du lịch như Hà Nội, Hà Tây, Hoà Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam…

Tuy nhiên, các chuyên gia du lịch cho rằng, mặc dù ở một số làng nghề cụ thể nói riêng như lụa Vạn Phúc (Hà Tây cũ), gốm Bát Tràng (Hà Nội), tranh Đông Hồ, mộc Đồng Kỵ (Bắc Ninh), làng đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng)… và Du lịch làng nghề Việt Nam nói chung trên thực tế đã thu hút một lượng du khách đáng kể nhưng vẫn chỉ là những nỗ lực tự phát, chưa hình thành được cách làm chuyên nghiệp.Bởi vậy, vấn đề đi tìm các biện pháp để du lịch làng nghề thực sự phát huy tiềm năng và hiệu quả, đóng góp ngày một lớn bền vững hơn cho mục tiêu phát triển du lịch cũng như phát triển kinh tế, xã hội, bảo tồn các giá trị văn hóa… được coi là nhiệm vụ hết sức cấp thiết, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang từng bước hội nhập toàn diện cùng với châu lục và thế giới.

2. Tiềm năng của Du lịch làng nghề tại VN

Làng nón Chuông (Thanh Oai – HN)

Làng nghề Việt Nam mang tính tập tục truyền thống, đặc sắc, có tính kinh tế bền vững, mang đến nhu cầu việc làm tại chỗ và những lợi ích thiết thực cho các cộng đồng cư dân nhỏ lẻ trên mọi miền đất nước (chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và Nông thôn Việt Nam), đồng thời góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội. Các làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống, hay làng nghề cổ truyền… có mặt khắp nơi trên đất nước Việt Nam, và thường được gọi chung là Làng nghề.

Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.

Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ những ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt lúa, phơi khô… còn những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.

Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre, lụa… phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau.

Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề chuyen sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng…

Những phát hiện về khảo cổ học, những cứ liệu lịch sử đã chứng minh được các làng nghề Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước đây. Các làng nghề thường tập trung chủ yếu ở các vùng châu thổ sông lớn như châu thổ sông Hồng, tại Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định …

Những làng nghề nổi tiếng:

Cùng với sự phát triển của đất nước, có rất nhiều làng nghề cũng phát triển mạnh và có những sản phẩm, những thương hiệu nổi tiếng, có sức hấp dẫn rất lớn như: Gốm Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội; Làng gốm Phù Lãng, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, Bắc Ninh; Đồ gỗ Đồng Kỵ; Làng Tranh Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh; Chiếu Nga Sơn, Thanh Hóa; Làng đá Non Nước, Đà Nẵng; Làng nghề truyền thống vàng bạc Châu Khê ( Làng vàng bạc Châu Khê ); Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm; Làng Lụa Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Nội; Làng Nghề Sơn Đồng (Hà Nội); Gốm xứ Bình Dương…

Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận các giá trị văn hoá và mua sắm những hàng hoá đặc trưng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước.

Vụ trưởng Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch), ông Vũ Thế Bình khẳng định: Làng nghề truyền thống đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch. Hàng thủ công truyền thống là một phần quan trọng của du lịch, là một trong ít mặt hàng phản ánh văn hóa bản địa đặc sắc. Hàng thủ công truyền thống có thể được ví như biểu tượng văn hóa và nghệ thuật của một quốc gia, là nhân tố quan trọng để hấp dẫn du khách. Xuất khẩu tại chỗ hàng thủ công truyền thống thông qua việc bán cho khách du lịch đã mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ. Điển hình nhất trong việc phát triển làng nghề với du lịch là làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Người dân ở đây khá nhạy bén khi có nhiều hình thức lôi kéo sự tham gia của khách vào quá trình làm nghề, tạo sự hứng thú cho khách du lịch

Mô hình phát triển làng nghề thủ công truyền thống đang trở thành hướng đi mới trong quá trình phát triển du lịch Việt Nam. Các làng nghề thường nằm trên trục đường giao thông, cả đường sông lẫn đường bộ, không chỉ tạo điều kiện lưu thông hàng hóa mà tiện xây dựng tuor, tuyến du lịch. Khi tham gia tour du lịch làng nghề, khách không chỉ được ngắm phong cảnh du lịch làng quê mà còn được thăm nơi sản xuất, thậm chí có thể tham gia vào một phần quá trình tạo ra sản phẩm. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của làng nghề truyền thống. Ông Vũ Thế Bình cho rằng, bằng sự nhạy bén, thông qua hoạt động phục vụ du lịch, một số nghề thủ công truyền thống đã được phục hồi như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), Phũ Lãng (Bắc Ninh). Thu nhập từ du lịch đã trở thành nguồn thu không nhỏ tại các làng nghề.

Làng nghề truyền thống VN ra đời từ rất lâu với vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân các địa phương. Sự tồn tại của các làng nghề truyền thống không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế: giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm, tăng thu nhập . cho người dân địa phương mà còn có vai trò quan trọng trong việc gìn giữ, bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống của các làng, xã, phường, hội . Tuy nhiên, lịch sử các làng nghề truyền thống Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, các ngành nghề thủ công truyền thống có những lúc có nguy cơ bị mai một, thất truyền đặc biệt là giai đoạn những năm cuối của thế kỷ XX. Nhận thức được tầm quan trọng của sự tồn tại các làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương nói riêng và của cả nước nói chung, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách, giải pháp nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề. Trong đó, Đảng và Nhà nước đặc biệt khuyến khích sự phát triển của loại hình du lịch làng nghề.

Ngày nay, khi thu nhập , mức sống của người dân nhiều nơi trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng ngày một tăng, trình độ dân trí được ngày một cao thì nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh, tìm hiểu lịch sử, văn hoá, đời sống nhân dân các nước, các dân tộc, các địa phương ngày càng tăng. Và sự thoả mãn những nhu cầu ấy là một trong những động lực thúc đẩy con người đi du lịch nhiều hơn trong thời gian gần đây. Để thoả mãn phần nào những nhu cầu ấy một sản phẩm du lịch mới đã ra đời ở Việt Nam – các chương trình du lịch làng nghề truyền thống.

Sự ra đời của các chương trình du lịch làng nghề một mặt đã thoả mãn phần nào nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hoá, đời sống người dân Việt Nam nói chung và các làng nghề nói riêng của các du khách. Mặt khác, hoạt động du lịch làng nghề cũng có những đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế – xã hội của các làng nghề đó.

Những làng nghề thường là nơi thu hút nhiều nhất sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Hà Nội và TP HCM là 2 thành phố có số lượng làng nghề rất lớn. Hầu hết những làng nghề này đều mang những nét đặc sắc riêng biệt, tạo nên một quần thể văn hóa đặc trưng riêng của từng vùng.

Khu vực Nam Bộ cũng là khu vực có không ít tiềm năng để phát triển du lịch làng nghề. Không gian văn hóa ĐBSCL là một tiểu vùng văn hóa quan trọng của Việt Nam với đầy đủ bản sắc thiên nhiên, đa dạng các sản phẩm vật chất lẫn tinh thần, trong đó phải kể đến có hàng trăm làng nghề truyền thống. Những làng nghề ấy đã đang nóng lòng muốn bước ra khỏi… cổng làng, hội nhập và phát triển vào dòng chảy của ngành công nghiệp không khói.

Theo dòng lịch sử trên 300 năm, ĐBSCL là vùng giao thoa văn hóa của 4 dân tộc Việt – Chăm – Hoa – Khơme. Đặc thù trên đã tạo nên bức chân dung sống động, bình dị nhưng vô cùng đặc sắc qua phong tục, đời sống văn hóa, kiến trúc nhà ở, nghệ thuật (cải lương, tài tử, thơ, ca, hò vè, hát ru), tế lễ, thờ cúng, ẩm thực, sản xuất, trong đó phải kể đến có hàng trăm làng nghề truyền thống dẫu trải qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn hiện hữu như nghề kim hoàn, chạm khắc, làm trống, hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa, từ lục bình, làm ghe, lu, gốm sứ, dệt chiếu, đan đát, bánh tráng, bánh phồng, kẹo dừa, bánh pía…

Với không gian sinh thái đa dạng phong phú của vùng sông nước ĐBSCL, ngành du lịch dã ngoại đang hấp dẫn ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước. Từ lợi thế trên, đưa sản phẩm – đặc sản văn hóa của các làng nghề ĐBSCL vào thị trường du lịch là hướng tiếp thị khả thi, đồng thời sẽ tạo hiệu quả kép vừa phát triển du lịch vừa bán được sản phẩm làng nghề. Để làm được điều trên, nhiều chuyên gia du lịch cho rằng trước mắt phải nhanh chóng chấn hưng làng nghề, xây dựng các thiết chế về du lịch làng nghề, mở tour du lịch làng nghề, phát triển các Showroom du lịch làng nghề. Kêu gọi đầu tư các nguồn lực trong và ngoài nước xây dựng các đề án như: Hệ thống quản lý Showroom sản phẩm làng nghề gắn kết với hoạt động du lịch.

Phát triển các công ty du lịch tư nhân phục vụ du lịch làng nghề (các showroom là điểm dừng du lịch). Thành lập trung tâm du lịch làng nghề Việt Nam có hệ thống điều hành, quảng bá trên cả nước với 3 trung tâm lớn tại Hà Nội, Huế, TPHCM, các chi nhánh quan trọng như Hải Phòng, Đà Nẵng, Đà Lạt và Cần Thơ. Và đặc biệt là cần củng cố, mở rộng tổ chức Hiệp hội Làng nghề Việt Nam từ trung ương đến cơ sở, qua đó xây dựng hệ thống mạng lưới Showroom du lịch làng nghề từ khu vực đến các tỉnh….Trong công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn, các làng nghề không chỉ sản xuất, kinh doanh, mà còn là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng, mang sắc thái văn hóa riêng biệt, có đặc trưng của từng làng theo ngành nghề truyền thống lâu đời, là nét độc đáo góp phần mở rộng phát triển các loại hình du lịch ở nước ta. Cho nên, đánh thức và phát triển du lịch làng nghề là hướng đi hữu hiệu nhằm đưa sản phẩm làng nghề vào thị trường, nâng cao thu nhập đời sống cho các nghệ nhân tâm huyết với nghề.

3. Thực trạng và hướng phát triển của Du lịch làng nghề tại Việt Nam

Làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh)

Nguồn tài nguyên du lịch làng nghề truyền thống đang được khai thác tích cực ở khía cạnh là điểm đến đặc trưng của Việt Nam. Tuy nhiên chức năng sản xuất hàng hoá phục vụ du lịch thì vẫn còn chưa được khai thác một cách thực sự hiệu quả.

Ở nước ta, mặc dù có chủ trương từ cấp quản lý gắn làng nghề với phát triển du lịch như: Cụm làng nghề mây tre đan ở Chương Mỹ, khảm trai Chuyên Mỹ, thêu Quất Động, nón làng Chuông, sơn mài Hạ Thái. Các làng nghề này dù có định hướng phát triển du lịch từ những năm 2003 – 2004, có tên trong sản phẩm tuor của các hãng lữ hành, song các tuor đến đây vẫn chưa có biến chuyển tích cực, lượng khách rất ít.

Hiện cả nước có khoảng 3.000 làng nghề; trong đó có 400 làng nghề truyền thống với 53 nhóm nghề làm ra khoảng 200 loại sản phẩm thủ công khác nhau; trong đó nhiều sản phẩm nghề có lịch sử phát triển hàng năm, hàng nghìn năm. Tiềm năng là vậy nhưng ít khách đến làng nghề dù có khá nhiều chương trình tuor giới thiệu. Ông Lưu Duy Dần, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, tại các làng nghề này chưa có những điều kiện để trình diễn, dịch vụ phục vụ khách tham quan nghèo nàn. Sự tham gia của cộng đồng và phát triển du lịch chưa cao, bởi họ chưa nhận thức được giá trị của du lịch đem lại. Một làng nghề được coi là phát triển du lịch khu thu nhập từ du lịch chiếm ít nhất 25% thu nhập của làng. Bên cạnh đó, một số làng nghề hướng phát triển du lịch nhưng hạ tầng giao thông và môi trường còn nhiều bất cập.

Cả nước hàng nghìn làng nghề, trong đó riêng Hà Nội đã có 1264 làng nghề với 530 làng nghề truyền thống, 244 làng nghề thủ công mỹ nghệ. Nhiều về số lượng, phong phú về loại hình sản xuất, nhưng hàng nghìn “mỏ tài nguyên du lịch” ấy không cho ra nổi một sản phẩm đồ lưu niệm đặc trưng của du lịch Việt Nam.

Các làng nghề ở Hà Nội như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, gỗ Vân Hà, sơn mài Hạ Thái, thêu Quất Động… có thể nói đã “ăn nên làm ra” nhờ xuất khẩu các đồ mỹ nghệ, nhưng việc “xuất khẩu tại chỗ” cho khách du lịch lại không được lưu tâm tới. Thời gian gần đây, khi du lịch làng nghề được đầu tư và quảng bá, các cửa hàng bày bán đồ thủ công mỹ nghệ trong làng nghề xuất hiện nhiều hơn. Thế nhưng, trên thực tế, hàng nằm trên giá bán cho du khách cũng chính là hàng bán ra thị trường tiêu dùng. Trong khi đó, nhu cầu của hai thị trường này lại hoàn toàn khác nhau.

Khách Tây Âu rất thích đồ sơn mài. Khách Nhật rất thích tranh thêu. Khách Mỹ rất thích đồ mỹ nghệ bằng gỗ, tre, rơm… Họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền ra mua những tác phẩm nghệ thuật chất lượng. Đó là lý do vì sao đồ thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu rất tốt sang những thị trường này. Nhưng khi họ sang Việt Nam với mục đích du lịch, thường là dài ngày, họ không thể mang đi vác lại những món đồ cồng kềnh, dễ vỡ trong suốt cuộc hành trình cho đến khi về nước và càng không thể mang với số lượng lớn về làm quà tặng bạn bè.

Ông Nguyễn Hoàng Lưu – Phó Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và làng nghề Hà Nội bày tỏ: “Đúng là không có sự rạch ròi trong việc sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề. Mặt hàng phục vụ tiêu dùng phải khác, mặt hàng phục vụ du lịch phải khác. Mỗi mặt hàng mang một chức năng khác nhau nên không thể giống nhau được. Trong khi đó, các làng nghề lại quá chú trọng vào thị trường tiêu dùng đồ mỹ nghệ cao cấp mà không quan tâm tới thị trường đồ lưu niệm bình dân khi mà thị trường này đang rất sôi động và mang lại nguồn thu lớn”.

Đó cũng một trong những lý do khiến du lịch làng nghề Việt Nam hiện nay chưa phát triển được. Hạ tầng văn hoá truyền thống bị phá vỡ bởi quá trình đô thị hoá, môi trường ô nhiễm do sản xuất phát triển, khách du lịch không có nhiều điểm để tham quan đã đành, mong muốn mua được những món đồ lưu niệm do các nghệ nhân Việt Nam chế tác cũng không thực hiện được.

“Họ không thể tìm được những sản phẩm ưng ý chứ chưa nói đến sản phẩm mang tính “ký ức”, mang dấu ấn Việt Nam. Ngay cả các làng nghề được coi là biết làm du lịch, mẫu mã, chủng loại sản phẩm cũng quá đơn điệu và không hợp với nhu cầu của thị trường. Người thợ mới chỉ để ý đến kỹ thuật, sản xuất theo ý thích bản thân hoặc rập khuôn theo truyền thống mà chưa có sự sáng tạo và tìm hiểu thị hiếu của khách du lịch.

Khách Hàn Quốc, Đài Loan ưa những sản phẩm tinh tế, hoa văn cầu kỳ, chi tiết. Khách châu Âu lại thích những sản phẩm đơn giản, hoạ tiết gọn ghẽ, thẳng thắn, sang trọng và đặc biệt quan tâm đến độ an toàn của sản phẩm, như chất liệu có độc hại không, hàng mây tre có ngâm tẩm hoá chất có hại không, sản phẩm có dễ bị mốc, bong tróc trong điều kiện thời tiết lạnh không… Trong khi đó, các làng nghề Việt Nam lại giỏi kỹ thuật hàng chợ hơn là kỹ thuật tinh xảo. Gốm Bát Tràng nổi tiếng là thế nhưng vào chợ Bát Tràng thì hỗn tạp, hàng tinh ít, “hàng chợ” thì nhiều. Khách nước ngoài vào chợ chỉ để tham quan chứ không mua được gì” – ông Lưu khẳng định.

Tuy nhiên, ông Lưu cũng cho rằng: khó có thể trách được các làng nghề bởi vì họ vốn sống bó hẹp trong môi trường nông thôn địa phương, ít nhạy cảm với thị trường và không có nhiều cơ hội giao thương với nước ngoài mà chỉ xuất hàng thông qua những doanh nghiệp. Cái gì bán được ra thị trường thì họ chỉ tập trung vào làm cái đó chứ không có khái niệm về sáng tạo mẫu mã. Trong khi đó, đa số các doanh nghiệp không có điều kiện làm “design”. Đội ngũ thợ chỉ giỏi tay nghề kỹ thuật mà thẩm mỹ yếu và bị bó khuôn.

Bà Nguyễn Thị Lan Hương – Giảng viên khoa du lịch, Viện Đại học Mở – cũng cho rằng: “Sở dĩ các làng nghề không biết chiếm lĩnh thị trường đồ lưu niệm phục vụ du lịch là vì chẳng ai nói với họ điều ấy. Các làng nghề thường chia làm hai cách ứng xử: hoặc là cứ sản xuất bình thường và mặc cho khách thích tham quan gì thì tham quan như làng nón Chuông, gỗ Đồng Kỵ; hoặc là tự ý thức được việc phải làm du lịch, phải bán được hàng cho khách du lịch nhưng sản xuất một cách tự phát mà không có kiến thức đầy đủ về thị trường du lịch như gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, mây tre đan Chương Mỹ…”

Cũng theo bà Lan Hương, do nhận thức về du lịch của các làng nghề rất hạn chế cho nên họ chỉ sản xuất dựa vào quan sát, học hỏi, kinh nghiệm bản thân mà không để ý đến tính bản sắc văn hoá vùng miền và thương hiệu của sản phẩm. Từ đó dẫn đến việc hơn 6000 làng nghề trên cả nước nhưng không có mẫu hàng lưu niệm nào đặc trưng nổi bật cho du lịch Việt Nam.

“Ví dụ như, Việt Nam rất nổi trội về du lịch biển. Mỗi vùng biển lại có một đặc trưng và bản sắc văn hoá khác nhau. Thế nhưng, đi dọc các điểm du lịch biển từ Bắc tới Nam thấy đồ lưu niệm nơi nào cũng giống nơi nào, cứ na ná tương tự nhau. Cũng vỏ sò, vỏ ốc, ngọc trai, san hô đấy, nhưng nếu người thợ thủ công biết thể hiện cái đặc trưng vùng miền vào sản phẩm thì lại khác. Vịnh Hạ Long có thuyền buồm, có quần thể các núi đá vôi nhiều hình thù. Biển Nam Trung Bộ lại nổi bật bởi các loại ghe không đâu có. Nếu các chi tiết đặc sắc này được sáng tạo thành những mẫu đồ lưu niệm thay cho những chuỗi vòng ốc, sò đơn điệu thì chắc chắn sẽ khiến khách du lịch thích thú bỏ hầu bao ra mua”.

Bà Lan Hương khẳng định thêm: “Nói thị trường đồ lưu niệm Việt Nam không có bất kỳ sản phẩm nào mang tính biểu tượng cho văn hoá Việt Nam thì không đúng. Cũng có thể liệt kê ra vài món như mặt nạ, như con rối, như cô gái đội nón lá mặc áo dài… nhưng tất cả những sản phẩm đó chưa đạt đến độ cô đọng văn hoá và gây ấn tượng thị giác với khách du lịch. Hơn nữa, lại được sản xuất quá lẻ tẻ, vụn vặt, không đủ mạnh để tạo ra tính biểu tượng phổ biến. Làng Bát Tràng làm du lịch đã nhiều năm nay. Gốm Bát Tràng nổi tiếng khắp cả nước. Nhưng sản phẩm nào có dấu ấn riêng của Bát Tràng, chỉ có ở Bát Tràng mà không đâu khác, khách nhìn vào là nhận ra ngay gốm Bát Tràng thì vẫn chưa có câu trả lời”.

Ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung thì hiện nay, các tour du lịch gắn với làng nghề đều còn mang tính tự phát.

Hiện nay, trên địa bàn xã Bát Tràng (Gia Lâm) có hơn 1.000 lò gốm lớn, nhỏ. Sản phẩm gốm của Bát Tràng không chỉ thu hút khách du lịch trong nước, mà cả khách du lịch nước ngoài mỗi khi đến Hà Nội. Theo Ban quản lý chợ gốm sứ Bát Tràng, trung bình hàng tháng, chợ gốm Bát Tràng đón 25-30 nghìn lượt khách trong nước, 5-6 nghìn lượt khách quốc tế. Mặc dù năm 2009, được coi là năm khó khăn của nền kinh tế, nhiều làng nghề đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn, sản xuất giảm sút, nhưng tại khu vực chợ gốm Bát Tràng khách đến tham quan vẫn khá tập nập, cho dù không phải là ngày cuối tuần. Từ khách nội thành tới khách du lịch ở các tỉnh khác, và tất nhiên, không thể vắng những du khách nước ngoài. Chị Nga, một người bán hàng tại khu vực chợ gốm Bát Tràng cho biết: “Lượng khách đến tham quan chợ gốm từ Tết ra đến giờ vẫn đông lắm, cả khách nước ngoài, khách các nơi khác đến, rồi học sinh, sinh viên các trường đại học cũng đi xe bus đến”.

Trưởng phòng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề (Sở Công Thương Hà Nội) Trịnh Thị Hồng Loan cho biết: “Bát Tràng được quy hoạch từ năm 2001, nên cơ sở hạ tầng đã khá tốt. Bên cạnh đó, trước Bát Tràng chỉ hướng tới xuất khẩu là chính, mặc dù có tiêu thụ tại thị trường trong nước nhưng người dân tự tìm đến chứ không phải qua hệ thống tour du lịch. Còn hiện nay, Bát Tràng đã hình thành hệ thống tour và có tuyến xe bus đến chợ gốm, đưa người dân nội đô đến Bát Tràng”.

Mấy năm trở lại đây, Bát Tràng còn mở thêm dịch vụ để du khách tham quan trực tiếp một số xưởng sản xuất, tham gia trực tiếp vào một số công đoạn sản xuất… và đã thu hút được nhiều du khách. Thú chơi vẽ gốm ở Bát Tràng đã và đang là một thú chơi độc đáo, hấp dẫn trí tò mò của bất kỳ du khách nào có dịp ghé qua.

Theo lời kể của các chủ xưởng gốm: Thú chơi vẽ gốm mới được người dân đưa vào hoạt động 5 năm trở lại đây. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian, hoạt động này đã thu hút một số lượng lớn khách du lịch tham gia, nhất là các bạn trẻ. Vẽ gốm, nặn gốm… không những giúp du khách hiểu hơn về những công đoạn của việc làm gốm, mà còn giúp du khách tiếp cận với nghệ thuật làm gốm theo cách riêng của mỗi người. Không chỉ thu hút các em học sinh, sinh viên… trò chơi vẽ gốm còn thu hút rất nhiều du khách quốc tế.

Trên địa bàn Hà Nội, nhiều làng nghề hình thành từ lâu đời, nổi tiếng trong và ngoài nước, đã được du khách trong nước và quốc tế biết đến và trở thành những địa điểm của ngành du lịch, như: Lụa Vạn Phúc, khảm trai Chuyên Mỹ, thêu Quất Động, sơn mài Duyên Thái, mộc Chàng Sơn, rèn Đa Sỹ, đúc đồng Ngũ Xã… Các làng nghề trên địa bàn Hà Nội có mật độ lớn, nằm dọc các trục đường giao thông và gắn liền với những di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, nên rất thuận lợi cho các công ty du lịch lữ hành đầu tư, xây dựng những tour, tuyến du lịch. Thời gian qua, nhiều công ty du lịch lữ hành của Hà Nội và các tỉnh bạn đã triển khai các tour đưa du khách đến tham quan các điểm du lịch làng nghề nổi tiếng. Tuy nhiên, theo đánh giá, hiện việc phát triển các tour du lịch làng nghề trên địa bàn Thủ đô còn nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, giao thông yếu kém, phong cách phục vụ không chu đáo, thiếu sự chuyên nghiệp…

Bên cạnh đó, thuyết trình viên tại các làng nghề vừa thiếu lại yếu. Mặt khác, sản phẩm tại các làng nghề còn sơ sài, nghèo nàn về chủng loại và mẫu mã. Điển hình là Bát Tràng, việc phát triển làng nghề gắn với du lịch đã tạo ra một hình thức xuất khẩu tại chỗ hữu hiệu, góp phần quảng bá hình ảnh làng nghề, sản phẩm làng nghề ở khắp mọi nơi. Song, chỉ vì sản phẩm của Bát Tràng còn sơ sài, nghèo nàn về chủng loại mẫu mã, chất liệu… nên 2-3 năm trở lại đây, thị trường xuất khẩu cũng đã bị thu hẹp đáng kể.

Ông Nguyễn Phương Thảo, Phó trưởng Phòng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề (Sở Công thương Hà Nội) cho rằng: Việc nhìn nhận phát triển làng nghề gắn với du lịch của chúng ta đã bị chậm. “Khách du lịch hay các công ty du lịch đã nhìn nhận ra vấn đề này từ khá lâu và họ cũng đã gắn vào các tour du lịch của họ. Trong khi đó, năm 2004-2005, chúng ta mới chính thức có chủ trương làm dự án. Nhưng các bước triển khai của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng còn chậm”.

Theo bà Trịnh Thị Hồng Loan Loan, điểm yếu để phát triển làng nghề gắn với du lịch là hầu hết các làng nghề hiện nay cơ sở hạ tầng, giao thông còn kém phát triển. Phó trưởng phòng Công thương huyện Thường Tín Lê Tuấn Tú cho biết: Cách đây mấy năm, Sở Du lịch Hà Tây (cũ) có gắn một số biển “Điểm du lịch làng nghề” trên địa bàn huyện. Tuy vậy, trên thực tế chỉ là hình thức, bởi hầu hết các làng nghề này cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu của tour du lịch. Ngoài ra, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề hiện nay cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển du lịch tại địa phương.

Để phát triển làng nghề gắn với du lịch có tính xã hội hóa cao, yếu tố hạ tầng cơ sở, giao thông chiếm vị trí rất quan trọng. Theo bà Loan cần đẩy mạnh thực hiện theo đúng quy hoạch, chỗ nào xã hội hóa thì đưa vào xã hội hóa, chỗ nào Nhà nước hỗ trợ thì đưa vào hỗ trợ.

Cũng theo ông Thảo, với các điều kiện hiện nay người dân làng nghề mới chỉ làm nghề, bởi vậy cần giúp họ hiểu ngoài làm nghề phải biết làm thương mại, gắn với du lịch. “Mấu chốt phải có sự xã hội hóa, tức Nhà nước chỉ đưa ra các cơ chế chính sách, lập ra quy hoạch hoặc có thể hỗ trợ một phần kinh phí các dự án trọng điểm, còn lại phải kêu gọi nhà đầu tư và kinh phí từ làng nghề, như vậy mới đưa được dự án thành hiện thực và phát huy hiệu quả”. Trên thực tế, trên địa bàn Hà Tây (cũ) trước đây đã quy hoạch và tiến hành xây dựng các điểm công nghiệp làng nghề cũng nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng tại các làng nghề.

Còn theo Ông Lưu Duy Dần, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, tại các làng nghề này chưa có những điều kiện để trình diễn, dịch vụ phục vụ khách tham quan nghèo nàn. Sự tham gia của cộng đồng và phát triển du lịch chưa cao, bởi họ chưa nhận thức được giá trị của du lịch đem lại. Một làng nghề được coi là phát triển du lịch khu thu nhập từ du lịch chiếm ít nhất 25% thu nhập của làng. Bên cạnh đó, một số làng nghề hướng phát triển du lịch nhưng hạ tầng giao thông và môi trường còn nhiều bất cập.

Về phía cơ quan quản lý chuyên ngành du lịch, ông Vũ Thế Bình cho rằng: “Hiện chúng ta thiếu kế hoạch đồng bộ, dài hơi về làng nghề. Một số địa phương có quy hoạch làng nghề với du lịch nhưng quy hoạch thiếu thực tiễn và không được thực hiện nghiêm chỉnh. Việc quản lý làng nghề còn chồng chéo, không thống nhất dẫn đến không có người chịu trách nhiệm cụ thể. Đó là chưa kể việc chèo kéo khách ô nhiễm môi trường tại làng nghề khiến khó hấp dẫn du khách”.

Mô hình phát triển làng nghề thủ công truyền thống đang trở thành hướng đi mới trong quá trình phát triển du lịch Việt Nam. Các làng nghề thường nằm trên trục đường giao thông, cả đường sông lẫn đường bộ, không chỉ tạo điều kiện lưu thông hàng hóa mà tiện xây dựng tuor, tuyến du lịch. Khi tham gia tour du lịch làng nghề, khách không chỉ được ngắm phong cảnh du lịch làng quê mà còn được thăm nơi sản xuất, thậm chí có thể tham gia vào một phần quá trình tạo ra sản phẩm. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của làng nghề truyền thống. Ông Vũ Thế Bình cho rằng, bằng sự nhạy bén, thông qua hoạt động phục vụ du lịch, một số nghề thủ công truyền thống đã được phục hồi như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), Phũ Lãng (Bắc Ninh). Thu nhập từ du lịch đã trở thành nguồn thu không nhỏ tại các làng nghề.

Trong khu vực, các nước như Thái Lan, Malaixia đã đạt được những kết quả khả quan trong việc phát triển du lịch gắn với nghề thủ công. Thái Lan có chính sách “mỗi làng một nghề tiêu biểu” và người dân tại các làng nghề gắn với du lịch có đời sống khá giả nhờ bán hàng thủ công truyền thống, hàng lưu niệm cho khách du lịch. Trong khi đó, tại Việt Nam, phần lớn các làng nghề đang sản xuất cái chúng ta có chứ chưa sản xuất cái khách du lịch cần.

Để phát triển du lịch làng nghề, chúng ta phải “đáp ứng” được nhu cầu của du khách. Muốn vậy, các cơ sở sản xuất tại làng nghề phải đầu tư nghiên cứu thị trường từng đối tượng khách để sản xuất ra những sản phẩm có mẫu mã, màu sắc phù hợp. Trước mắt là tổ chức bán hàng sản phẩm thủ công truyền tại các điểm du lịch. Còn lâu dài, muốn làng nghề trở thành điểm du lịch, chúng ta cần có quy hoạch, đầu tư về hạ tầng giao thông, cơ sở đón tiếp khách, điểm trình diễn; đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến quảng bá.

Nông dân cần học cách làm du lịch

Để nhân rộng các mô hình du lịch làng nghề giống như lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, tranh Đông Hồ, tại thủ đô Hà Nội, từ nhiều năm nay, các cơ quan chức năng đã tiến hành quy hoạch và phê duyệt một loạt dự án xây dựng các điểm du lịch làng nghề truyền thống như mây tre đan Phú Nghĩa, thêu ren Quất Động, tạc tượng Sơn Đồng, khảm trai Chuyên Mỹ…

Nhiều làng nghề cho rằng, do xa trung tâm thủ đô, giao thông chưa thuận tiện nên khó thu hút khách. Do đó, nhiều địa phương đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường dẫn từ quốc lộ vào làng nghề, nhà chợ, nhà trưng bày triển lãm. Điển hình như làng mây tre đan Phú Nghĩa, từ năm 2001, UBND tỉnh Hà Tây (cũ) và Sở Du lịch Hà Tây đã đầu tư 1 tỷ đồng để làm đường, xây nhà triển lãm… nhưng cho tới nay vẫn vắng hoe du khách.

Nhiều làng nghề khác, dự án hiện vẫn dậm chân tại chỗ, thậm chí chỉ kịp treo lên tấm biển “địa điểm du lịch làng nghề”, sau đó để hoen ố bởi nắng mưa, và không có bóng dáng một khách du lịch nào. Nguyên nhân là do việc đầu tư không đồng bộ, không rõ cơ chế triển khai, hoặc dự án triển khai dở dang. Trong khi các dự án chỉ tập trung vào cơ sở hạ tầng thì người dân làng lại không được tập huấn các kỹ năng làm du lịch, bà con phải tự loay hoay mày mò.

Chị Bùi Thúy Vinh, một chủ cơ sở mây tre đan ở làng nghề Phú Nghĩa, chia sẻ: “Ở đây chúng tôi đều hiểu nếu kéo được khách du lịch tới thăm làng nghề thì không những bán được nhiều hàng mà còn là cơ hội để quảng bá hình ảnh, thương hiệu của làng mình nữa, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu?”. Còn tại Bắc Ninh, các điểm du lịch làng nghề vẫn do các nghệ nhân mày mò, xây dựng các tour đón khách, còn các cơ quan chức năng chưa vào cuộc.

Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng, việc đầu tiên là phải quy hoạch lại các làng nghề trở thành điểm tham quan du lịch, sau đó đào tạo cho nông dân kỹ năng làm du lịch, doanh nghiệp lữ hành và các làng nghề cần hợp tác chặt chẽ để thiết lập nên các tour tham quan làng nghề.

Cùng với đó một yếu tố quan trọng để thu hút khách du lịch đến với các làng nghề đó là vấn đề môi trường. Bài toán đặt ra trong công tác quản lý làng nghề đã từ lâu nhưng chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hồ Xuân Hùng khẳng định: “Vấn đề môi trường làng nghề hiện nay đặt ra vấn đề là phải hoạch định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Hiện nay chịu trách nhiệm quản lý về môi trường làng nghề là Bộ Khoa học-Công nghệ chứ không nằm ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhưng dù Bộ nào thì tôi cho rằng, vấn đề là từ chính quyền cơ sở, quan trọng nhất là quy hoạch cho làng nghề có được địa điểm, vị trí, nhất định phải làm rõ vấn đề xử lý môi trường khi xây dựng và phát triển làng nghề. Tôi xin lưu ý là không phải để xảy ra vấn đề môi trường rồi mới xử lý, mà phải bắt đầu từ quy hoạch, nếu không xử lý được vấn đề về môi trường thì nhất định không cho sản xuất”.

Phát triển, quảng bá du lịch làng nghề đã khó, gìn giữ được bản sắc, những nét tinh hoa của làng nghề cũng như môi trường sống của người dân còn khó hơn nhiều. Nếu chỉ chú trọng tới làm du lịch, làm kinh tế mà quên mất những điều căn bản đó thì sẽ tự làm mất đi một phần di sản văn hóa lớn nhất của mình đó là các làng nghề.

KẾT LUẬN:

Du lịch làng nghề nước ta có nhiều lợi thế, tiềm năng để phát triển. Trong những năm gần đây, mặc dù đã có bước phát triển đáng ghi nhận, thể hiện những nỗ lực của những cơ quan quản lý ngành du lịch cũng như của các địa phương, du lịch làng nghề đã ngày càng đóng góp tích cực hơn so với tỷ trọng các loại hình du lịch. Tuy nhiên nhìn chung, loại hình du lịch làng nghề Việt Nam còn phát triển manh mún, tự phát và chưa xứng tầm với tiềm năng.

Chính vì thế, vấn đề tìm và ứng dụng các phương hướng, biện pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề ở nước ta là một vấn đề lớn, không chỉ là trách nhiệm của cơ quan quản lý ngành du lịch, mà còn cần sự phối hợp của nhiều ban ngành như các cơ quan quản lý văn hóa, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thông; Bộ Tài Nguyên – Môi trường; Bộ Công thương… giống như ý kiến của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hồ Xuân Hùng thì vấn đề phát triển, quảng bá du lịch làng nghề đã khó, gìn giữ được bản sắc, những nét tinh hoa của làng nghề cũng như môi trường sống của người dân còn khó hơn. Nếu chỉ chú trọng tới làm du lịch, làm kinh tế mà quên mất những điều căn bản đó thì sẽ tự làm mất đi một phần di sản văn hóa lớn nhất của mình đó là các làng nghề.

Cinet Tổng hợp

Nguồn: cinet.gov.vn

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Di Sản Tại Việt Nam Và Một Số Thách Thức Đối Với Chương Trình Đào Tạo Thuyết Minh Viên – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Du Lịch (Itdr) trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!