Kinh Nghiệm Du Lịch Bụi Cao Bằng, Chia Sẻ Của Dân Phượt
Kinh Nghiệm Du Lịch Bụi Cao Bằng Dành Cho 2 Người Chi Tiết Nhất
Kinh Nghiệm Du Lịch Cao Bằng (Cập Nhật 01/2021)
Kinh Nghiệm Du Lịch Bụi Cao Bằng
Kinh Nghiệm Du Lịch Bụi Ở Cao Bằng Như “thổ Địa”
Tỉnh Cao Bằng nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Hà Giang, phía nam giáp tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Lạng Sơn. Phía bắc và phía đông giáp các địa cấp thị Bách Sắc và Sùng Tả của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc).
Mã vùng điện thoại: 026
Biển số xe: 11
Tổ chức hành chính: Tỉnh Cao Bằng bao gồm 1 thành phố (Thành phố Cao Bằng) và 12 huyện (Huyện Bảo Lạc, Huyện Bảo Lâm, Huyện Hạ Lang, Huyện Hà Quảng, Huyện Hòa An, Huyện Nguyên Bình, Huyện Phục Hòa, Huyện Quảng Uyên, Huyện Thạch An, Huyện Thông Nông, Huyện Trà Lĩnh, Huyện Trùng Khánh).
Khí hậu
Cao Bằng có khí hậu cận nhiệt đới ẩm với địa hình đón gió nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các đợt không khí lạnh từ phương bắc.
Mùa hè ở đây có đặc điểm nóng ẩm, nhiệt độ cao trung bình từ 30 – 35 °C và thấp trung bình từ 23 – 25 °C, nhiệt độ không lên đến 39 – 40 °C. Vào mùa đông, do địa hình Cao Bằng đón gió nên nó có kiểu khí hậu gần giống với ôn đới, nhiệt độ trung bình thấp từ 5 – 8 °C và trung bình cao từ 18 – 22 °C, đỉnh điểm vào những tháng 12, 1 và 2 nhiệt độ có thể xuống thấp hơn khoảng từ 2 – 3 °C, độ ẩm thấp, trời hanh khô. Mùa xuân và mùa thu không rõ rệt, thời tiết thất thường; mùa xuân thường có tiết trời nồm, mùa thu mát, dễ chịu.
Diện tích: 6.707,9 km²
Dân số: Dân số của tỉnh Cao Bằng năm 2011 là 515.000 người. Mật độ dân số: 77 người/km².
Thành phần dân tộc: Các dân tộc ở Cao Bằng gồm Tày, Nùng, H’Mông, Dao, Việt, Sán Chay,… Có 11 dân tộc có dân số trên 50 người.
Lịch sử:
Thời tiền sử
Phía Nam sông Dương Tử và vùng gọi là Lĩnh Nam, theo sử liệu Trung Hoa là nơi cư ngụ của các giống dân gọi chung là Bách Việt. Ngày nay chúng ta đã biết rõ là giống dân bách Việt đã đóng góp lớn trong sự thành lập của nền văn minh Trung Hoa bắt đầu từ đời Thương. Nguồn gốc của dân Bách Việt và văn minh của họ ra sao từ thời kỳ đá mới (7,000 đến 1200BC) tới thời đại đồ đồng, nhất là ở khu vực từ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông hiện nay đến đồng bằng Bắc Việt Nam? Ta hãy tóm tắt sơ lược những gì đã được biết hiện nay.
Meacham cho ta thấy là biển Nam Hải tiến lên nhanh vào khoảng 4000 BC, làm ngập lụt các vùng bờ biển có khi đến cả tám dặm sâu vào đất liền và sự kiện này đã làm ta mất đi các dấu vết khảo cổ của văn hoá thời kỳ trung đại đá mới, văn hoá này có tính cách gần môi trường biển (tuy vậy ta vẫn tìm thấy được một số di chỉ của văn hoá này ở Việt Nam, văn hoá Quỳnh Văn). Vì thế ở các vùng núi sâu trong lục điạ, ta sẽ dễ tìm thấy di tích của thời sơ khai đá mới hơn.
Hai địa điểm khảo cổ thời sơ khai đá mới biết nhiều đến ở Quảng Tây là Bái Lương động (Bailian Dong) gần Lưu Châu và Zhenpi Yan gần Quế Lâm (Guilin). Động Bái Lương được các người tiền sử cuối thời đá cũ đến đầu thời đá mới cư trú. Các đồ đá được xác định bằng Carbon 14 là vào khoảng từ 30000 đến 7500BC. Địa điểm Zhenpi Yan được xác định vào khoảng 10000BC. Có hơn 400 mộ được coi là của tổ tiên người Nùng – Zhuang được phát hiện ở vùng này. Trong mộ các xác người được chôn ở vị trí nằm co, một kiểu chôn rất hiếm ở Trung Hoa nhưng rất nhiều và phổ thông ở Việt Nam. Như các mộ trong các hang Đắng, Mộc Long tìm thấy ở rừng Cúc Phương, thuộc văn hoá Hoà Bình, người chết chôn nằm co, bôi thổ hoàng đỏ và có các công cụ đá. Điều này chứng tỏ là cư dân ở vùng này có nguồn gốc phương Nam và rất gần với văn hoá Hoà Bình (9000 đến 5600BC) và Bắc Sơn (8300 đến 5900) ở Việt Nam.
Từ văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã tiến tới đồ đá mài với đặc điểm rìu mài gọi là rìu Bắc Sơn, các đồ gốm, trang sức vỏ sò được tìm thấy nhiều ở các hang, di chỉ vùng Lạng Sơn, như hang Làng Cườm, Bó Lúm, Bó Nam… Ở Quảng Tây, cũng tìm thấy được di chỉ của văn hoá Bắc Sơn vùng Nam Ninh, dọc các sông Ung, Zua, You với các vỏ trang sức, đồ gốm, đất màu hoàng thổ, đồ đá với loại rìu văn hoá Bắc Sơn.
So sánh với các di chỉ như Hemudu ở vịnh Hàng Châu, tỉnh Triết Giang và các di chỉ bắc Quảng Đông, thì các di chỉ vùng biển xa phía nam sông Dương Tử, vùng đông nam (Phúc Kiến, Quảng Đông) và tây nam (Quảng Tây, Vân Nam) có liên hệ gần gũi với các di chỉ ở Việt Nam.
Qua thời kỳ đá mới, vào khoảng thời nhà Thương , một di chỉ phía nam sông Dương Tử đáng chú ý là Wucheng ở Giang Tây (Jiangxi), quận Thanh Giang nơi sau này là lãnh thổ của nước Việt miền Triết Giang, cạnh nước Chu. Di chỉ này gần sông Tống (Song), dễ dàng thông thương với các lãnh thổ Việt ở vùng Lĩnh Nam (Quảng Tây và Quảng Đông). Tại đây, tìm thấy nhiều chữ viết được tìm thấy trên các mảnh gốm, đồ đồng, rất khác với chữ viết ở phía bắc, cho thấy một ngôn ngữ và văn hoá hoàn toàn khác và độc lập với văn hoá trung tâm phía bắc. Đây là chữ viết cổ nhất của ngôn ngữ Việt cổ. Tư liệu sử của thời Chiến quốc cho thấy từ ngữ, văn phạm khác với tiếng Hán xưa. Có vài tác giả cho rằng tiếng nói xưa của người Việt là thuộc Thái ngữ, gần với tiếng nói của cư dân miền Lĩnh Nam, mà hậu duệ hiện nay là người Nùng – Zhuang ở biên giới Việt-Trung ngày nay, và người Việt ở đồng bằng sông Hồng.
Cả hai thuộc vào họ Bách Việt mà ta có thể xếp vào nhóm Lạc Việt (Luo Yue) ở đông nam Quảng Tây và bắc Việt Nam và Tây Âu (Xi Ou) ở miền Quế Giang và Tây Giang của Quảng Tây. Và chính tại các vùng này từ Lĩnh Nam, Vân Nam và bắc Việt Nam mà ta tìm thấy trống đồng nhiều nhất, một văn hoá trống đồng rực rỡ mà ta gọi là văn hoá Đông Sơn toả ra từ Bắc Việt Nam. Các hình vẽ người, thú, thuyền, trống… nổi tiếng trên vách đá ở biên giới Việt – Trung, dọc sông Zuo, Quảng Tây mang đậm nét hình trên trống đồng Đông Sơn của người Lạc Việt. Cũng như các vật tổ của người Nùng – Zhuang như cóc, ếch đều có thể hiện trên trống đồng.
An Dương Vương và Tây Âu của Tày – Nùng
Hiện nay, chúng ta đã rõ về An Dương Vương Thục Phán từ Tây Âu chinh phục nước Văn Lang của người Lạc Việt đời các vua Hùng. Tây Âu là một nhánh của Lạc Việt ở miền núi trung du, hay gọi là Âu Việt. Người Âu Việt đây chính là người Tày cổ. Theo truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (chín chúa tranh vua) của đồng bào Tày ở Cao Bằng thì Thục Phán là con của Thục Chế thủ lãnh vùng Nam Cương ở Cao Bằng, Quảng Tây gồm 9 xứ Mường. Vào cuối đời Hùng Vương, Thục Phán hãy còn ít tuổi lên thay vua cha vừa mất. Các chúa Mường kéo quân về đòi chia và nhường vua. Tuy ít tuổi, nhưng thông minh, Thục Phán đã bày ra các cuộc thi, đua sức đua tài và hẹn ai thắng sẽ nhường vua cho. Ông dùng mưu kế làm cho họ mất nhiều công sức mà không ai thắng cuộc. Cuối cùng các chúa phải qui phục Thục Phán. Khi Nam Cương cường thịnh lúc Văn Lang suy yếu, Thục Phán đã đánh chiếm và tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa, gần Hà Nội.
Đây là một truyền thuyết dân gian ở Cao bằng, được Lê Sơn viết thành trường ca hơn ngàn câu viết bằng tiếng Tày. Lã Văn Lô dịch ra bằng tiếng Việt năm 1963 và đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Theo Phan Huy Lê, vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, một số tác giả người Pháp khi viết về lịch sử người Tày, có nhắc đến truyền thuyết này, nhưng không công bố tư liệu.
Về sự việc cắt đất cho nhà Minh của họ Mạc
Trong một số sách sử, sự kiện nhà Mạc qua Mạc Đăng Dung dâng đất cho nhà Minh là một trong vài lý do mà qua các triều đại sau này (ngay cả cho đến cách đây không lâu) đã lên án gay gắt. Nhưng sự thật thì không đúng vậy và lý do chính là sự thù hận và thiên vị của các người chiến thắng viết sử về sau đối với một triều đại mà họ gọi là “Nguỵ triều” trong lịch sử Việt Nam. Sự bảo lưu của tư tưởng này kéo dài từ Lê – Trịnh đến nhà Nguyễn, qua các sách sử từ “Đại Việt thông sử” của Lê Quí Đôn, “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên cho đến sử quán nhà Nguyễn đối xử với “nghịch thần” và “nguỵ quyền”. Với những lăng kính như vậy, các sự kiện đều bị thiên vị và mang tính chất cảm năng hơn là sự kiện trung thật theo lý trí. Ngày nay qua các nghiên cứu và không còn vướng với gánh nặng ý thức hệ của lịch sử, chúng ta được biết vấn đề hoàn toàn khác với kết luận của sử cũ.
Đặc biệt là vấn đề “dâng đất”, chỉ có hai quyển sử viết và kết tội về việc này : Đại Việt Sử ký Toàn thư và Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim. Ngay cả các sách của Lê Quý Đôn và của sử quán nhà Nguyễn thiên vị chống “nguỵ triều” cũng không viết đến các đất dâng (Lê Quý Đôn) hay dè dặt và nghi ngờ là sự dâng đất là không đúng sự thật (Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương). Các sách của sử quán nhà Nguyễn thường dẫn lại các thư tịch Trung quốc và vì thế hoài nghi sự dâng cắt đất trong Toàn thư.
Theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” (Toàn thư) thì “Năm Mậu Tý (1528) : Đăng Dung sợ nhà Minh đem quân hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai hình người bằng vàng và bạc, cùng là châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ ấy Nam Bắc lại sai thống sứ đi lại”. Giáo sư Đào Duy Anh, khi hiệu đính bản dịch Toàn thư đã chú thích việc này là “Hai châu Quy, Thuận thì nhà Tống đã chiếm từ đời nhà Lý nước ta rồi”. Vả lại “Minh sử” không hề chép chuyện này. Hai châu Quy Hoá và Thuận An, do hai thủ lãnh Nùng Chí Hội, Nùng Tôn Đản đời Lý quy phục nhà Tống và nộp cho họ, về sau trở thành hai châu Quy Thuận (Quy Dịn theo tiếng Tày-Nùng-Zhuang) thuộc tỉnh Quảng Tây.
Toàn thư lại viết : “Năm Canh Tý (1540), mùa đông tháng 11, Mạc Đăng Dung … đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, rập đầu quỳ hàng, dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân, quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của Châu Vĩnh An trấn Yên Quảng cho xin nội thuộc, lệ vào Khâm Châu”
(Nguyễn Đức Hiệp chú thích : từ động, tiếng Tày-Nùng-Zhuang có nghĩa là ấp, làng. Tiếng Việt cổ cũng có nghĩa tương tự như vậy).
Việc “xin hàng” này “Minh sử” quyển 32 có chép, nhưng không hề chép việc cắt đất mà chỉ viết vào năm Gia Tĩnh 20(1541), Mao Bá Ôn về triều tâu là Mạc Đăng Dung “đã trả lại đất 4 động đã xâm chiếm, xin nội phụ xưng thần”. Theo như vậy thì nhà Mạc chỉ trả lại đất xâm lấn, chứ không cắt đất cho nhà Minh. Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn đã không nói gì đến việc nhà Mạc dâng các động cho nhà Minh. Việc này ông có giải thích tai sao trong Kiến Văn tiểu lục: “Đọc Thù vực chu tư lục của Nghiêm Tòng Giản đời Minh biết được đầu cuối việc nhà Mạc hàng nhà Minh”. Lê Quý Đôn là người học rộng tham khảo và đọc rất nhiều sách Trung quốc.
Theo thư tịch Trung quốc như Khâm Châu chí và An Nam chí, ta xác định là đây là những đất (động) “của” nhà Minh trước đó do các trưởng động người Nùng không chịu thần phục nhà Minh, đã đến xin nhập vào đất Việt Nam thời nhà Lê và họ Mạc, sau đó trả lại. Khâm Châu chí chép : “Bảy động Chiêm Lãng, Thì La, Tư Lặc, Liễu Cát, Cổ Sâm, Tư Lẫm, La Phù nguyên là đất ba quận Thì La, Chiêm Lãng, Như Tích đời Tuyên Đức nhà Minh, bọn Hoàng Kim Quảng, trưởng động Tư Lẫm làm phản, chiếm cứ Tư Lẫm, La Phù, Liễu Cát, Cổ Sâm nhân đấy uy hiếp cả động Tư Lặc cùng tuần ty kênh Phật đào gồm chín thôn, dăng dài hơn hai trăm dặm để phụ về nước An Nam. Họ Lê phong cho các chức Kinh lược sứ, Kinh lược đồng tri và Thiêm sự mà vẫn nối đời giữ đất và thuộc vào châu Vạn Ninh…”
Đại Nam nhất thống chí dưới triều Nguyễn cũng thừa nhận sự kiện trên và viết thêm : “nhà Mạc xin nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát.. thuộc châu Tĩnh Yên, trấn Yên Quảng, nguyên thuộc về Khâm Châu”. Lịch triều hiến chương, phần Bang giao chí đã trích lời trong tờ biểu nhà Mạc dâng vua Minh năm 1540 : “còn như việc quan thú Khâm Châu thuộc Quảng Đông tâu rằng bốn động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích và Thiếp Lãng là đất cũ của Khâm Châu, Quảng Đông, nếu quả thực như lời ấy thì đó lại là cái lỗi mạo nhận của họ Lê trước, nay thần xin trao trả lại để thuộc về Khâm Châu”.
Xưa kia Nhà Tây Sơn cũng bị quốc sử quán nhà Nguyễn xuyên tạc khá nặng, vì đối với họ Tây Sơn là một “ngụy triều” cũng như nhà Mạc trước kia. Tuy vậy giờ đây đa số người Việt hiện nay cho là nhà Tây Sơn là một triều đại chính thống và anh hùng trong lịch sử Việt Nam, không phải là một “nguỵ triều” nữa. Đó cũng là một phần do ảnh hưởng của cụ Trần Trọng Kim viết “Việt nam sử lược” đã giải cho Nhà Nguyễn Tây Sơn khỏi phải lăng kính cực thiên vị của các sách sử chính thống của nhà Nguyễn theo nguyên tác. Tuy vậy, cụ Trần Trọng Kim đã không làm một việc làm tương tự, nghiên cứu kỹ hơn, đối với một “nguỵ triều” xa hơn nữa trong lịch sử Việt nam : Nhà Mạc. Ông Lê văn Hoè trong bài nghiên cứu đăng ở báo Thời Mới năm 1951 đã tranh luận về đánh giá nhà Mạc sau khi Việt Nam Sử lược được xuất bản và cho thấy Trần Trọng Kim đã sai và chưa công tâm khi đã nặng lời biếm nhục Mạc Đăng Dung một cách khắt khe gay gắt.
Hiện nay đã có một số lượng khá lớn nghiên cứu và viết lại đúng hơn về nhà Mạc kể cả các thành tựu về tư tưởng, văn hoá, văn học xứng đáng là một triều đại chính thống và anh minh.
Khởi nghĩa Nông Văn Vân và tư tưởng Minh Mạng
Ngược lại với tư tưởng nhà Lý và chính sách gắn liền bình đẳng với các dân tộc miền núi. Chính sách tập quyền theo nho học cứng rắn của Minh Mạng theo một mô hình truyền thống của Trung Hoa, không khoan nhượng với các sự khác biệt, coi thường các mọi tộc kể cả “Tây dương”, đóng cửa thương mại và đuổi người ngoài, đã đưa chính quyền nhà Nguyễn đến sự đụng độ không tránh khỏi về ý thức hệ và văn hoá với dân tộc miền Việt Bắc. Sau khi dẹp xong sự nổi dậy của Lê Văn Khôi ở Gia Định miền Nam chống lại sự bất công độc đoán của Minh Mạng, chính sách khắc nghiệt cứng rắn và coi thường miệt thị dân “Thổ” (Tày và Nùng ngày nay) của Minh Mạng đã đưa đến sự nổi dậy của người Tày-Nùng và người Kinh (Việt) ở Cao Bằng, Lạng Sơn dưới sự lãnh đạo của Nông Văn Vân.
Một đoạn sau đây trong bài hịch của Nông Văn Vân phần nào nói lên lý do của cuộc khởi nghĩa
“Mười lăm năm đức chính có chi
Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh
Ba mươi tỉnh nhân dân đều oán
Tiếng oan hào kêu dậy đất không lông.”
Du Lịch Bụi, Phượt Cần Thơ
Du Lịch Bụi Cần Thơ
Hướng Dẫn Đi Đảo Khỉ Cần Giờ Bằng Xe Buýt Cực Dễ Dàng Và Tiện Lợi
Kinh Nghiệm Du Lịch Đảo Thạnh An Cần Giờ 2 Ngày 1 Đêm
Những Kinh Nghiệm Du Lịch Bụi Campuchia 2022