Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU1.

Lí do chọn đề tài

Du lịch là ngành công nghiệp không khói có ảnh hưởng rất lớn đến quá trìnhphát triển kinh tế bởi mang lại lợi ích kinh tế cao. Đặc biệt với các quốc gia đangtrong quá trình hội nhập và phát triển như Việt Nam thì việc đẩy mạnh phát triển dulịch là một vấn đề quan trọng. Để phát triển du lịch đòi hỏi phải có sự hợp thành củanhiều yếu tố. Trong đó tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để tạo thành các sản phẩmdu lịch. Chính sự phong phú đa dạng và đặc sắc của tài nguyên du lịch tạo nên sựphong phú, đa dạng, hấp dẫn của sản phẩm du lịch.Trải dài trên lãnh thổ hình chữ S, Việt Nam có rất nhều các tài nguyên du lịch,từ những tài nguyên du lịch tự nhiên đến tài nguyên du lịch nhân văn với vô vàngdanh lam thắng cảnh nổi tiếng. Những điểm đến là khu du lịch sinh thái, vườn quốcgia, vịnh biển, hệ thống các đảo và quần đảo làm cho tài nguyên thiên nhiên thêmphong phú. Bên cạnh đó là tài nguyên du lịch nhân văn với nhiều di tích mang đậmgiá trị lịch sử và không ít công trình là “Di sản văn hóa của nhân loại”. Với tàinguyên vô cùng đa dạng đó việc khai thác các thế mạnh, tính toán đến tác động môi

trường khác nhau trong quá trình khai thác là vấn đề hết sức khó khăn, đặc biệt là tàinguyên du lịch nhân văn.Xuất phát từ mâu thuẫn đó, tôi nghiên cứu vấn đề: “Thế mạnh tài nguyên dulịch nhân văn và tác động đến phát triển kinh tế xã hội”. Đề tài tạo điều kiện đánhgiá giá trị tài nguyên du lịch nhân văn, xác định mối quan hệ giữa tài nguyên du lịchnhân văn và việc khai thác các tài nguyên đó để phục vụ phát triển du lịch.2.

Mục tiêu của đề tài

Đánh giá thế mạnh tài nguyên du lịch nhân văn Việt Nam nhằm xây dựng địnhhướng khai thác phù hợp và đề xuất các giải pháp khai thác có hiệu quả.3.

Nhiệm vụ của đề tài

Tổng hợp một số vấn đề lí luận về du lịch nói chung và tài nguyên du lịchnhân văn nói riêng.Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn trên lãnh thổ Việt NamNghiên cứu đánh giá thực trạng khai thác tài nguyên du lịch nhân văn Việt

Nam nhằm xây dựng định hướng khai thác phù hợp.4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tài nguyên du lịch nhân văn tác động trên các mặtKinh tế – xã hội – môi trường.Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tài nguyên du lịch nhân văn trên lãnhthổ Việt Nam.5.

Các phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được đề tài này, với khả năng và điều kiện cho phép, bản thân đãsử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:Phương tích thu thập, phâm tíc, tổng hợp những tư liệu nhằm kế thừa tài liệuđã có bao gồm việc đọc, xử lí, phân tích và hệ thống lại toàn bộ những kết quảnghiên cứu đã có liên quan đến nội dung đề tài.

Phương pháp phân tích số liệu thống kê: thu thập các tài liệu thông kê liênquan từ các cơ trung ương đến địa phương tỉnh, huyện, xã,…Kế thừa những kết quả nghiên cứu có trước, hệ thống hóa cơ sở lí luận, thựctiễn và vận dụng vào đề tài một cách hợp lý.6.

Nội dung bài tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, đề tài gồm các nội dungchính sau:Chương 1. Một số vấn đề lí luận cơ bản về du lịch và tài nguyên du lịch nhânvăn.Chương 2. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở Việt Nam.Chương 3. Tác động của tài nguyên du lịch nhân văn đến Kinh tế – Xã hội –Môi trường của Việt Nam.Chương 4. Giải pháp khai thác tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam.

PHẦN NỘI DUNGCHƯƠNG 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCHVÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN1.1.

Một số vấn đề lí luận

1.1.1. Khái niệm du lịchDưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, hoàn cảnh không gian, thời giankhác nhau, mỗi tổ chức cá nhân có những cách hiểu về du lịch khác nhau.Với mục đích quốc tế hóa, tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp tạiROMA (Italia) năm 1963, các chuyên gia đã đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch làtổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộchành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyêncủa họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến du lịch không phải nơilàm việc của họ.”Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourism Organization) lại định nghĩa: “Dulịch là tổng thể các hiện tượng và các mối quan hệ xuất phát từ sự giao lưu với dukhách, các nhà kinh doanh, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư trong quátrình thu hút và đón tiếp khách du lịch.”1.1.2. Khái niệm tài nguyên du lịchTài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nănglượng và thông tin trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sửdụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.Tài nguyên du lịch theo Pirojnik: “Tài nguyên du lịch là những tổng thể tựnhiên văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phụchồi và phát triển thể lực tinh thần của con người, khả năng lao động và sức khỏe củahọ, trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế kĩthuật cho phép, chúng được dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất những dịch vụ dulịch và nghỉ ngơi.”Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệmnày luôn gắn liền với khái niệm du lịch.

Tài nguyên du lịch được phân loại thành tài nguyên thiên nhiên gắn liền vớicác nhân tố tự nhiên và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố con người vàxã hội.Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề để phát triển du lịch. Thựctế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấpdẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu.Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử việc khai thác phụ thuộc nhiều vàođiều kiện kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, chính trị nên ngày càng được mở rộng.Thế nên, tài nguyên du lịch bao gồm cả tài nguyên du lịch đã, đang và chưa khaithác.Theo Điều 4, Luật Du lịch của Việt Nam: “Tài nguyên du lịch là cảnh quanthiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hóa, công trình lao động sáng tạocủa con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhucầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến dulịch, đô thị du lịch.”1.1.3. Đặc điểm tài nguyên du lịchTài nguyên du lịch cũng giống như các loại tài nguyên khác mang những đặcđiểm chung và những đặc điểm riêng liên quan tới tính chất ngành du lịch. Để khaithác và sử dụng tốt nhất các tài nguyên du lịch, trước hết cần phải tìm hiểu và nghiêncứu các đặc điểm nguồn tài nguyên này. Tài nguyên du lịch có những đặc điểmchính sau:– Khối lượng các nguồn tài nguyên và diện tích phân bổ các nguồn tàinguyên là cơ sở cần thiết để xác định khả năng khai thác và tiềm năng của hệ thốnglãnh thổ nghỉ ngơi, du lịch.– Thời gian khai thác xác định tính mùa của du lịch, nhịp điệu của dòngkhách.– Tính bất biến về mặt lãnh thổ của đa số các loại tài nguyên tạo nên lực hútcơ sở hạ tầng và dòng du lịch tới nơi tập trung các loại tài nguyên đó.– Vốn đầu tư tương đối thấp và giá thành chi phí sản xuất không cao chophép xây dựng tương đối nhanh chóng cơ sở hạ tầng và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cũng như khả năng sử dụng độc lập từng loại tài nguyên.

– Tài nguyên du lịch có khả năng sử dụng nhiều lần nếu tuân theo các quiđịnh về sử dụng một cách hợp lý, thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ.1.2.

Phân loại tài nguyên du lịch:

Tài nguyên du lịch có thể chia làm 2 nhóm sau:Tài nguyên tự nhiên:Tài nguyên nhân văn: Tài nguyên nhân văn vật thểDi sản văn hoá thế giớiCác Di tích lịch sử văn hoá, thắng cảnh đẹp cấp quốc gia và địa phương Tài nguyên nhân văn phi vật thểDi sản văn hoá truyền miệng và phi vật thể của nhân loạiCác lễ hộiNghề và làng nghề thủ công truyền thốngVăn hoá nghệ thuậtVăn hoá ẩm thựcThơ ca và văn họcVăn hoá ứng xử và những phong tục, tập quán tốt đẹpTài nguyên du lịch gắn với văn hoá các tộc ngườiCác hoạt động mang tính sự kiện1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiênTheo khoản 1 (Điều 13, Chương II) Luật du lịch Việt Nam năm 2005 quyđịnh: “Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khíhậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang được khai thác hoặc có thểđược sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.Các loại tài nguyên du lịch tự nhiên không tồn tại độc lập mà luôn luôn tồntại, phát triển trong cùng một không gian lãnh thổ nhất định, nó có mối quan hệ qualại, tương hỗ chặt chẽ theo những quy luật của tự nhiên cũng như các điều kiện văn

hoá, kinh tế – xã hội và thường được phân bố gần các tài nguyên du lịch nhân văn.Thực tế, khi tìm hiểu và nghiên cứu về tài nguyên du lịch tự nhiên, các nhà nghiêncứu thường nghiên cứu theo từng thành phần tự nhiên, các thể tổng hợp tự nhiên cóđiều kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch, các di sản thiên nhiên thế giới và cácđiểm tham quan tự nhiên.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văna. Khái niệmTài nguyên du lịch nhân văn bao gồm truyền thống văn hoá, các yếu tố vănhoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trìnhlao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác cóthể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.Tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng và hiện tượng xã hội cùng cácgiá trị văn hoá, lịch sử của chúng có sức hấp dẫn du khách và được khai thác để kinhdoanh du lịch. Trong số các tài nguyên du lịc nhân văn thì các di sản văn hoá có vịtrí đặc biệt.Trong Luật di sản văn hoá của Việt nam thì di sản văn hoá được chia làm 2loại, đó là di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể. Di sản văn hoá vật thể“Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoahọc,bao gồm các di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vậtquốc gia”.“Di tích lịch sử văn hoá là công trình xây dựng và các di vật, cổ vật,bảo vậtquốc gia thuộc công trình địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học”“Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợpgiữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mĩ, khoahọc”.“Di vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học”.“Cổ vật là hiện tượng được lưu truyền lại có giá trị tiêu biểu vè lịch sử, vănhoá, khoa học từ một trăm năm tuổi trở lên”.“Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý hiếm

của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học”. Di sản văn hoá phi vật thể“Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử – văn hoá,khoa học, được lưu truyền bằng trí nhớ, chữ viết, được truyền miệng, truyền nghề,trình diễn và các hình thức lưu truyền khác bao gồm: tiếng nói, chữ viết, tác phẩmvăn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống,lễ hội, bí quyết nghề nghiệp thủ công truyền thống, tri thức về y dược cổ truyền, vănhoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian”.b. Đặc điểmDo những nét đặc trưng và tính chất của mình, tài nguyên du lịch nhân văn cónhững đặc điểm khác với tài nguyên du lịch tự nhiên:Tài nguyên du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn tác dụng giải tríViệc tìm hiểu các đối tượng nhân văn diễn ra trong thời gian ngắn, nó có thểkéo dài một vài giờ, cũng có thể một vài phút. Do vậy trong một chuyến du lịchngười ta có thể hiểu từ nhiều giá trị nhân văn.Số người quan tâm đến tài nguyên du lịch nhân văn thường có văn hoá hơn,thu nhập và yêu cầu cao hơn.Tài nguyên du lịch nhân văn thường tập trung ở những điểm quần cư vànhững thành phố lớn.Ưu thế to lớn của tài nguyên du lịch nhân văn là đại bộ phận không có tínhmùa, không bị phụ thuộc vào các điều kiện khí tượng và điều kiện tự nhiên khác.Sở thích của những người tìm đến tài nguyên du lịch nhân văn rất phức tạp vàrất khác nhau. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc đánh giá tài nguyên du lịch nhânvăn. Cơ sở để đánh giá nguồn tài nguyên này chủ yếu dựa vào cơ sở định tính, xúccảm và trực cảm. Đồng thời nó cũng chịu ảnh hưởng mạnh của các nhân tố như: Độtuổi, trình độ văn hoá,, hứng thú, trình độ nghề nghiệp, thành phần dân tộc,…1.2.2.1.

Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể

a. Di sản văn hoá thế giớiỦy ban Di sản Thế giới đã xác định và liệt kê danh sách các di sản là các cảnhquan văn hóa có giá trị lớn đối với nhân loại. Để được đưa vào danh sách di sản thế

giới, các khu vực đề cử phải có giá trị nổi bật toàncầu và đáp ứng được ít nhất 1 trong 10 tiêu chí.Trong bản hướng dẫn năm 2002, trong bộ tiêu chílựa chọn có 6 tiêu chí về văn hóa và 4 tiêu chí vềtự nhiên. Năm 2005, Ủy ban Di sản Thế giới đưara bộ tiêu chí mới gồm 10 tiêu chí lựa chọn nhưsau:Hình 1.1: Biểu tượng Di sản Thế giớiNguồn: vi.wikipedia.org

Tiêu chuẩn văn hóa(I) – là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.(II) – Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị của nhân loại, trongmột khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một vùng văn hoá của thế giới, về cácbước phát triển trong kiến trúc hoặc công nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đôthị hoặc thiết kế cảnh quan.(III) – Là một bằng chứng độc đáo hoặc duy nhất hoặc ít ra cũng là một bằngchứng đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn minh đang tồn tại hoặcđã biến mất.(IV) – Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc một quần thểkiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có ý nghĩa trong lịch sửnhân loại.(V) – Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một sự chiếmđóng lãnh thổ mang tính truyền thống và tiêu biểu cho một hoặc nhiều nền văn hóa,nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của những biến động không thểđảo ngược được.(VI) – Gắn bó trực tiếp hoặc cụ thể với những sự kiện hoặc truyền thống sinhhoạt với các ý tưởng, hoặc các tín ngưỡng, các tác phẩm văn học nghệ thuật có ýnghĩa nổi bật toàn cầu. (tiêu chuẩn này chỉ duy nhất được sử dụng trong nhữngtrường hợp đặc biệt và áp dụng đồng thời với các tiêu chuẩn khác).Tiêu chuẩn tự nhiên(VII) – Chứa đựng các hiện tượng, địa điểm tự nhiên hết sức nổi bật hoặc cáckhu vực có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo và tầm quan trọng về thẩm mỹ.(VIII) – Là những ví dụ nổi bật đại diện cho những giai đoạn lớn trong lịchsử của Trái Đất, trong đó có lịch sử về sự sống, các quá trình địa chất quan trọng

đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo, hoặc các đặc điểm quan trọng vềđịa chất hoặc địa lý tự nhiên.(IX) – Là những ví dụ tiêu biểu cho quá trình sinh thái và sinh học đang tiếpdiễn trong quá trình tiến hoá và phát triển của các dạng địa hình, vùng nước ngọt,biển và ven biển và các quần xã động vật, thực vật.(X) – Là những nơi cư trú tự nhiên quan trọng nhất và tiêu biểu nhất, mang giátrị bảo tồn nguyên trạng sự đa dạng sinh học, trong đó có những môi trường sốngchứa đựng những loài động vật hoặc thực vật đang bị đe dọa, có giá trị nổi bật toàncầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn.b. Các Di tích lịch sử văn hoá, thắng cảnh đẹp cấp quốc gia và địa phươngDi tích lịch sử – văn hoá là tài sản quý giá của mỗi địa phương, mỗi dân tộc,mỗi đất nước và của cả nhân loại. Nó chứa đựng những truyền thống tốt đẹp, nhữngtinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hoá, kiến trúc, mỹ thuật của mỗi địa phương,mỗi quốc gia. Chính vì vậy nhiều Di tích Lịch sử Văn hoá đã trở thành đối tượngtham quan, nghiên cứu, thực hiện các nghi lễ tâm linh của nhiều du khách và lànguồn tài nguyên du lịch quý giá.Theo luật Di sản Văn hoá của việt nam năm 2003: “Di tíchLịch sử Văn hoá lànhững công trình xây dựng và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình,địa điểm có giá trị lịch sử – văn hoá và khoa học”. Di tích lịch sử văn hoá chứa đựngnhững nội dung lịch sử khác nhau. Mỗi di tích chứa đựng những nội dung, giá trịvăn hoá, lượng thông tin riêng biệt khác nhau, bởi thế mỗi di tích lịch sử – văn hoá,danh lam thắng cảnh ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia được phân chia thành những loạihình sau: Loại hình di tích văn hoá khảo cổ:Là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị văn hoá, thuộc về thời kỳ lịchsử xã hội loài người chưa có văn tự và thời gian nào đó trong lịch sử cổ đại.Các di tích khảo cổ còn được gọi là di chỉ khảo cổ. Các di tích khảo cổ thườngbao gồm các loại: di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, những công trình kiến trúc cổ, nhữngđô thị cổ, những tàu thuyền đắm. Loại hình di tích lịch sử:Mỗi địa phương, mỗi quốc gia dân tộc đều có quá trình lịch sử, xây dựng, bảovệ địa phương và đất nước riêng và được ghi dấu bằng những di tích lịch sử.

Những di tích lịch sử là những địa điểm, những công trình kỷ niệm, những vậtkỷ niệm, những cổ vật ghi dấu bằng những sự kiện lịch sử, những cuộc chiến đấu,những danh nhân, anh hùng dân tộc của một thời kỳ nào đó trong quá trình lịch sửcủa mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Loại hình di tích văn hoá nghệ thuật:Là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị nên còn gọi là di tíchkiến trúc nghệ thuật. Những di tích này không chỉ chứa đựng những giá trị kiến trúcmà còn chứa đựng cả những giá trị văn hoá xã hội, văn hoá tinh thần.Sự phân biệt các dạng tài nguyên du lich nói chung chỉ mang tính tương đối.Vì trong tài nguyên du lịch nhân văn vật thể lại chứa đựng cả tài nguyên nhân vănphi vật thể và ngược lại. Trong các di tích kiến trúc nghệ thuật lại thường mangtrong mình cả những giá trị lịch sử, vì vậy nhiều nhà nghiên cứu thường gọi chung làDi tích Lịch sử Văn hoá nghệ thuật. Các danh lam thắng cảnh:Theo Luật Di sản Văn hoá của Việt Nam năm 2003: “Danh lam thắng cảnh làcảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên vớicông trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ và khoa học”.Các danh lam thắng cảnh không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên bao la, hùng vĩ,thoáng đãng mà còn có giá trị nhân văn do bàn tay khối óc của con người tạo dựngnên.Các danh lam thắng cảnh thường chứa đựng trong đó giá trị của nhiều loại ditích lịch sử – văn hoá. Bởi thế nên nó có giá trị đặc biệt quan trọng đối với sự pháttriển du lịch ngày nay. Các công trình đương đại:Là các công trình kiến trúc được xây dựng trong thời kỳ hiện đại, có giá trịkiến trúc, mỹ thuật, khoa học, kỹ thuật xây dựng, kinh tế, văn hoá thể thao hấp dẫndu khách có thể là đối tượng thăm quan nghiên cứu, vui chơi giả trí, chụp ảnh kỷniệm,… đối với khách du lịch.

Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể

a. Di sản Văn hoá truyền miệng và phi vật thể của nhân loạiNăm 1989 tại phiên họp Đại hội đồng UNESCO đã đưa ra hai chính sách:Công nhận một danh hiệu cho một sản phẩm văn hoá phi vật thể, danh hiệu đógọi là “kiệt tác Di sản Văn hoá truyền miệng và phi vật thể của nhân loại”.Di sản Văn hoá phi vật thể và truyền miệng luôn luôn được giữ gìn trình diễn,bổ sung truyền lại cho lớp trẻ thông qua trí nhớ và tài năng của nghệ nhân.b. Các lễ hộiỞ bất cứ thời đại nào, bất cứ dân tộc nào, bất cứ mùa nào cũng đều có lễ hội,bởi lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá tập thể của nhân dân sau thời gian laođộng mệt nhọc, hoặc đây là dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại:ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống, hoặc giải quyết những nỗi lo âu, những khaokhát, ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được.Cấu trúc lễ hội thường bao gồm 2 phần: Phần lễ:Các lễ hội dù lớn hay nhỏ cũng đều có phần nghi lễ với những nghi thứcnghiêm túc, trọng thể để mở đầu ngày hội theo không gian và thời gian.Tùy vào tính chất của lễ hội mà phần lễ có ý nghĩa riêng. Thông thường phầnlễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về một sựkiện lịch sử trọng đại, một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc có ảnh hưởng lớn đến sự pháttriển của xã hội. Bên cạnh đó cũng có những lễ hội mà phần lễ thực hiện nhữngnghi lễ tôn kính, dâng hiến lễ vật cho các vị thiên thần, thánh nhân, cầu mongnhững điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nghi lễ trong lễ hội mang ý nghĩa đặc biệtthiêng liêng, nó chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống, giá trị thẩm mỹ và tưduy triết học của cộng đồng. Phần hội:Trong phần hội thường diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâmlý cộng đồng, văn hoá dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thựctế lịch sử, xã hội và thiên nhiên.

Trong hội thường tổ chức những trò vui chơi giải trí, biểu diễn văn hoá nghệthuật. Yếu tố cấu thành và nuôi dưỡng lễ hội là kinh tế – xã hội và tự nhiên nên nộidung của phần hội không chỉ giữ nguyên những giá trị văn hoá truyền thống mà nóluôn có xu hướng bổ sung thêm những thành tố văn hoá mới. Chính đặc điểm này đãtạo cho lễ hội thêm sống động, vui nhộn và phong phú. Tuy nhiên nếu yếu tố nàykhông được chọn lọc và giám sát chặt chẽ cũng như tuyên truyền, giáo dục, đầu tưbảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá truyền thống thì sẽ làm cho những giá trị đóbị lai tạp, mai một và suy thoái.Tuỳ vào quy mô và giá trị văn hoá truyền thống còn được bảo tồn, ý nghĩa củalễ hội đối với quốc gia hay địa phương mà các lễ hội được xếp hạng làm lễ hội quốctế hay lễ hội địa phương. Các lễ hội có sức hấp dẫn cao đối với du khách là đốitượng để triển khai nhiều loại hình du lịch văn hoá, đặc biệt là loại hình du lịch lễhội. Thời gian tổ chức lễ hội:Các lễ hội thường được tổ chức nhiều vào sau mùa vụ sản xuất, mùa mà thờitiết, phong cảnh đẹp là mùa xuân và mùa thu. Các giá trị văn hoá lịch sử của lề hội lànguồn tài nguyên du lịch quý giá để tổ chức triển khai các loại hình tham quan,nghiên cứu chuyên đề lễ hội hoặc kết hợp với các loại hình du lịch tham quan,nghiên cứu và mua sắm.

c. Nghề và làng nghề thủ công truyền thống Nghề thủ công truyền thống:Là những nghề có những bí quyết về công nghệ sản xuất ra các sản phẩmmang những giá trị thẩm mỹ, tư tưởng triết học, tâm tư tình cảm và những ước vọngcủa con người.Nghề thủ công truyền thống là nghề sản xuất ra nghệ thuật do những nghệnhân dân gian sáng tạo, gìn giữ và phát triển từ đời này qua đời khác cho nhữngngười cùng huyết thông hoặc cùng làng bản. Các sản phẩm thủ công cổ truyền nàykhông chỉ mang những giá trị sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà nó còn chứađựng bên trong những giá trị về mỹ thuật, giá trị triết học, tâm linh thể hiện tàinghệ, tâm tư, ước vọng của người làm ra chúng. Chính những tính hữu ích và giá trị

văn hoá của chúng mà theo dòng chảy của lịch sử, đến nay nhiều nước trên thế giớinói chung và Việt Nam nói riêng đã hình thành và bảo tồn được những giá trị tốt đẹpcủa tài nguyên này. Làng nghề:“Là những làng có các nghề sản xuất hàng hoá bằng các công cụ thô sơ và sứclao động của con người đã được hình thành một thời gian dài trong lịch sử, nghệthuật sản xuất hàng hoá được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở trong làng. Sảnphẩm hàng hoá được sản xuất không chỉ đáp ứng nhu cầu ở trong làng mà còn bán ởthị trường trong nước và quốc tế”.d.

Các đối tượng văn hoá – thể thao và hoạt động nhận thức khác

Những đối tượng văn hoá như các trung tâm khoa học, các trường đại học, cácthư viện lớn, bảo tàng… đều có sức hấp dẫn rất lớn du khách tới tham quan và nghiêncứu. Những hoạt động mang tính sự kiện: các giải thể thao lớn, các cuộc triển lãmthành tựu kinh tế quốc dân, các hội chợ, liên hoan phim ảnh quốc tế, ca nhạc quốctế… cũng là đối tượng hấp dẫn khách du lịch. Thông thường những đối tượng vănhoá tập trung ở các thủ đô và các thành phố lớn. Vì vậy những thành phố lớn đươngnhiên trở thành những trung tâm du lịch văn hoá của các quốc gia, vùng và khu vựcvà là hạt nhân của các trung tâm du lịch.Vai trò tài nguyên du lịch nhân văn với pháttriển du lịch.

1.3.

Vai trò tài nguyên du lịch nhân văn với phát triển du lịch

Du lịch là ngành kinh tế mà trong sự phát triển hoạt động của ngành vai tròcủa tài nguyên rất quan trọng. TNDL nhân văn là một trong hai yếu tố, cùng với tàinguyên du lịch tự nhiên tạo thành các sản phẩm du lịch.Ta có thể tạo lập công thức như sau:T = A + B +CS=T+D

Trong đó

T: Tài nguyên du lịchA: Tài nguyên du lịch nhân vănB: Tài nguyên du lịch tự nhiênC: Tài nguyên kinh tế kĩ thuật và bổ trợ

S: Sản phẩm du lịchD: Các dịch vụ và hàng hóa du lịchĐối với mỗi vùng miền lãnh thổ, có sự tập trung đa dạng, phong phú tàinguyên du lịch nhân văn thì hướng phát triển du lịch của vùng miền đó cũng theoquy luật lấy tài nguyên nhân văn hiện có làm cơ sở để tạo ra sản phẩm du lịch đặctrưng. Tài nguyên du lịch nhân văn có mối quan hệ qua lại mật thiết với các yếu tốkhác, nó thể hiện lịch sử văn hóa vùng miền, thông qua đó tác động tới lối sống củadân cư địa phương, tới nghề và truyền thống văn hóa xã hội khác. Do vậy, tài nguyêndu lịch nhân văn là yếu tố quan trọng trong việc tạo nên sản phẩm du lịch.Tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình dulịch văn hoá. Các hình thức du lịch được đưa ra trên cơ sở của nguồn tài nguyên. Tàinguyên du lịch nhân văn cần phải được khai thác sao cho xứng đáng với tiềm năngmà không làm mất đi các giá trị truyền thống sẵn có.Tài nguyên du lịch nhân văn là một phần của tài nguyên du lịch, một bộ phậnquan trọng của tổ chức lãnh thổ du lịch. Các phân hệ của hệ thống lãnh thổ du lịchgồm: Khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật dulịch, đội ngũ cán bộ nhân viên và bộ máy tổ chức điều hành, quản lí du lịch. Cácphân hệ này đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và với môi trường kinh tế xã hộicũng như các phân hệ khác.Như vậy, có thể nói rằng tài nguyên du lịch nhân văn là nhân tố quan trọngtrong sự phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn góp phần định hướng pháttriển du lịch của địa phương, là nguồn tài nguyên có khả năng bền vững cao nếu biếtquan tâm, bảo tồn tôn tạo một cách hợp lí. Vì vậy, trước những đặc điểm của tàinguyên du lịch nhân văn sẵn có mỗi địa phương hãy đưa ra các chính sách phù hợpđể vừa phát triển du lịch, lại vừa bảo tồn được tài nguyên.

CHƯƠNG IITHỰC TRẠNG DU LỊCH NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM2.1.

Tài nguyên du lịch nhân văn Việt Nam

2.1.1. Các di tích văn hóa – lịch sửGía trị văn hóa – lịch sử là yếu tố cốt lõi tạo nên sự hấp dẫn và độc đáo của sảnphẩm du lịch, có sức lôi cuốn du khách đến tìm hiểu một nền văn hóa khác lạ. ViệtNam là đất nước của những di tích văn hóa – lịch sử lâu đời, có giá trị cao đối với dulịch. Ở nước ta, 1 di tích khi đủ các điều kiện sẽ được công nhận theo thứ tự: di tíchcấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt. Tính đến năm 2014, ViệtNam có hơn 40.000 di tích, thắng cả nh trong đó có hơn 3.000 di tích được xếp hạngdi tích quốc gia và hơn 7.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số lượng ditích nhiều nhất ở 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm khoảng 70% ditích của Việt Nam. Trong số di tích quốc gia có 62 di tích quốc gia đặc biệt và trongsố đó có 8 di sản thế giới.2.1.1.1.

Thống kê di tích Việt Nam

Các tỉnh có số lượng di tích lớn hơn 1500 gồm: Hà Nội: 5175 di tích; BắcGiang: 2237 di tích,Bắc Ninh 1859 di tích,Ninh Bình: 1879 di tích, Đồng Nai: 1800di tích; Hà Nam: 1784 di tích; Nam Định: 1655 di tích; Thanh Hóa: 1535 di tích.Các tỉnh có mật độ di tích lớn nhất gồm: Hà Nam 2,07 di tích/km2; Hà Nội:1,56 di tích/km2; Bắc Ninh: 1,96 di tích/km2; Ninh Bình: 1,36 di tích/km2 và HưngYên: 1,31 di tích/km2.Bảng 2.1: Thống kê di tích Việt NamNguồn: vi.wikipedia.orgSTT

Tên tỉnh

Tổng di tích1287

1

An Giang

2

Bà Rịa Vũng Tàu

31

14

150

2014

3

Bạc Liêu

10

35

130

2014

4

Bắc Giang

99

539

2237

2014

5

Bắc Kạn

12

33

160

2014

Bắc Ninh

297

726

1859

2014

7

Bến Tre

15

22

8

Bình Dương

12

38

500

2023

9

Bình Định

33

50

231

2008

10

Bình Phước

9

3

12

2009

11

Bình Thuận

24

20

300

2012

12

Cà Mau

9

17

13

Cao Bằng

26

36

226

2008

14

Cần Thơ

4

16

20

2009

15

Đà Nẵng

16

37

200

2011

16

Đăk Lăk

12

4

58

2012

17

Đăk Nông

9

1

2014

18

Điện Biên

7

10

2014

19

Đồng Nai

27

19

1800

2013

20

Đồng Tháp

13

50

91

2023

21

Gia Lai

13

3

30

2009

22

Hà Giang

15

2

36

2010

23

Hà Nam

69

54

1784

2010

24

Hà Nội

1196

1156

5175

2023

25

Hà Tĩnh

75

393

500

2023

26

Hải Dương

146

89

1098

2009

27

Hải Phòng

110

208

236

2009

28

Hậu Giang

9

6

188

2023

29

Hòa Bình

41

27

295

2023

30

Hưng Yên

159

88

1210

2010

31

Khánh Hòa

13

98

1091

2009

32

Kiên Giang

22

13

200

2009

33

Kon Tum

5

8

2014

34

Lai Châu

4

14

2014

35

Lạng Sơn

23

95

581

2013

36

Lào Cai

15

11

50

2023

37

Lâm Đồng

20

10

38

Long An

16

65

2023

2023

2009

Nam Định

74

125

1655

2010

40

Nghệ An

50

70

1000

2010

41

Ninh Bình

103

235

1879

2023

42

Ninh Thuận

14

27

233

2014

43

Phú Thọ

73

218

1372

2014

44

Phú Yên

18

21

45

Quảng Bình

45

34

150

2010

46

Quảng Nam

60

300

500

2023

47

Quảng Ngãi

28

76

199

2014

48

Quảng Ninh

60

44

626

2010

49

Quảng Trị

29

160

489

2010

50

Sóc Trăng

8

22

300

2010

51

Sơn La

11

34

64

2010

52

Tây Ninh

22

54

365

2010

53

Thái Bình

91

349

1400

2007

54

Thái Nguyên

36

70

780

2010

55

Thanh Hóa

136

441

1535

2009

56

Thừa Thiên Huế

32

88

902

2010

57

Tiền Giang

20

86

106

2010

58

TP. Hồ Chí Minh

54

91

400

2010

59

Trà Vinh

12

16

533

2023

60

Tuyên Quang

88

55

498

2010

61

Vĩnh Long

10

36

450

2014

62

Vĩnh Phúc

68

222

1264

2010

63

Yên Bái

10

34

500

2013

2.1.1.2.

2014

Phân loại di tích

Căn cứ Điều 4 Luật di sản văn hoá, Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐCP ngày11/11/2002 của Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết thi hành một số điều của LuậtDi sản văn hoá, các di tích được phân loại như sau: Di tích lịch sử văn hoáDi tích lịch sử văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.

Di tích lịch sử văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trìnhdựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như đền Hùng, Cổ Loa,

Hình 2.1: Du lịch – Atlat Địa lý Việt namNguồn: onthidialy.files.wordpress.com

Cố đô Hoa Lư, Bãi cọc Bạch Đằng, Cột cờ… Công trình xây dựng, địa điểmgắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các ditích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di tích lịch sử Kim Liên, Đền Kiếp Bạc, Quầnthể di tích danh thắng Yên Tử, Lam Kinh, đền Đồng Nhân…Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳcách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di tích chiếnthắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, Khu di tích lịch sử cách mạng Pắc Bó, Phòngtuyến Tam Điệp, Hành cung Vũ Lâm, Khu rừng Trần Hưng Đạo… Năm 2010, di tíchlịch sử chiếm 51.2% số di tích được xếp hạng. Các di tích này không những có giá trịlịch sử và văn hóa mà còn mang lại những giá trị lớn trên phương diện kinh tế, nhất làkinh tế du lịch. Di tích kiến trúc nghệ thuậtDi tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể kiếntrúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ thuật kiếntrúc của dân tộc. Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ cógiá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Các ditích tiêu biểu loại này như Chùa Bút Tháp, phố cổ Hội An, nhà thờ Phát Diệm, chùaKeo, đình Tây Đằng,Chùa Phật Tích. Năm 2010, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm44.2% tổng số di tích được xếp hạng. Di tích khảo cổDi tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giaiđoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này nhưHoàng thành Thăng Long, hang Con Moong, di chỉ Đông Sơn, động Người Xưa,thánh địa Mỹ Sơn. Năm 2010, di tích khảo cổ chiếm 1.3% các di tích được xếp hạng. Di tích thắng cảnhDi tích thắng cảnh (danh lam thắng cảnh) là cảnh quan thiên nhiên hoặc địađiểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịchsử, thẩm mỹ, khoa học. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:

Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiênvới công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu. Các di tích quốc gia đặc biệt tiêubiểu thuộc loại này như 4 danh lam thắng cảnh khu danh thắng Tây Thiên, Tràng AnTam Cốc Bích Động, vịnh Hạ Long, động Phong Nha.Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạngsinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vậtchất về các giai đoạn phát triển của Trái Đất. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này nhưvịnh Hạ Long, Cao nguyên Đồng Văn, các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyểnthế giới ở Việt Nam. Danh lam thắng cảnh chiếm khoảng 3.3% số di tích được xếphạng. Di tích lịch sử cách mạngDi tích cách mạng kháng chiến là một bộ phận cấu thành hệ thống các di tíchlịch sử văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tôn giáo tín ngưỡngnhư đình, đền, chùa, miếu… ở chỗ: đó là những địa điểm cụ thể, công trình kiến trúccó sẵn (nhà ở, đường phố…), là những công trình được con người tạo nên phù hợpvới mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn liền với những sự kiện cụ thể,nhân vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích. Loại hình di tích này rất đa dạng, phongphú, có mặt ở khắp mọi nơi, khó nhận biết, đồng thời cũng rất dễ bị lãng quên, dễbiến dạng theo mục đích sử dụng, theo thời tiết và theo thời gian. Bởi vậy các di tíchnày vừa khó bảo tồn vừa khó phát huy tác dụng nếu không được quan tâm đặc biệt.Một số di tích lịch sử cách mạng như: Chiến khu Tân Trào, Chiến khu Quỳnh Lưu,Khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ,…2.1.1.3.

Phân cấp di tích

Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử văn hoá, danh lamthắng cảnh (gọi chung là di tích) được chia thành:Di tích nằm trong danh mục kiểm kê di sản văn hóa.Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương. Chủ tịch Uỷ bannhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh.Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia. Bộ Văn hóa Thôngtin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam) quyết định xếp hạng di tíchquốc gia.

Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia. Thủtướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đềnghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc xem xét đưa di tíchtiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới. Di tích quốc gia đặc biệt ở ViệtNam được xếp hạng các đợt đầu gồm: Cố đô Hoa Lư, Di tích Pác Bó, Dinh Độc Lập,Hoàng thành Thăng Long, Khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Khu di tích ATKThái Nguyên, Khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ, Khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc,Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế, Khu di tích Kim Liên, Khu di tích Phủ Chủ tịch, Khudi tích Tân Trào, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng, Nhà tù Côn Đảo, Quần thểdi tích Cố đô Huế, Thành nhà Hồ, Thánh địa Mỹ Sơn, Thắng cảnh Tràng An TamCốc Bích Động, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng,Vịnh Hạ Long, Đô thị cổ Hội An và Đền Hùng.Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định làkhông đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại không có khả năng phục hồi thì người có thẩmquyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đốivới di tích đó.2.1.1.4.Di sản thế giới văn hóa thế giớiViệt Nam với bề dày lịch sử hang nghìn năm dựng nước và giữ nước, đã hunđúc nên biết bao nét đẹp văn hóa truyền thống, trong đó có giá trị văn hóa được cả thếgiới tôn vinh. NQ TW5 (khóa VII) của Đảng ta khẳng định: “Di sản văn hóa là tàisản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc và cơ sở để sángtạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Cần phải hết sức coi trọng bảo tồn, kếthừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc (bác học và nhângian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể”. Tạithời điểm cập nhật, trên cả nước có 17 di sản văn hóa được UNESCO công nhận.Trong đó 8 di sản văn hóa vật thể, 9 di sản là kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu củanhân loại. Các di sản có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách và là niềm tự hào, là tàisản vô giá của quốc gia và nhân loại.Bảng 2.2: Di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhậnNguồn: vi.wikipedia.org

STT

Di sản

1

Quần thể di tích Cố đô Huế

Hạng mụcDi sản văn hóa:(III), (IV)

Địa phương NămHuế

1993

Di sản

2

Vịnh Hạ Long

Di sản thiên nhiên:(VII), (VIII)

Quảng Ninh 1994

3

Phố cổ Hội An

Di sản văn hóa:(II), (V)

Quảng Nam 1999

4

Thánh địa Mỹ Sơn

Di sản văn hóa:(II), (III)

Quảng Nam 1999

5

Vườn quốc gia Phong Nha-KẻBàng

Di sản thiên nhiên:(VIII)

Quảng Bình 2003

6

Trung tâm Hoàng thànhThăng Long

Di sản văn hóa:(II), (III), (VI)

7

Thành nhà Hồ

Di sản văn hóa:(II), (IV)

Thanh Hóa 2011

Di sản hỗn hợp:(V), (VII), (VIII)

Ninh Bình

8

Quần thể danh thắngTràng An

Hạng mục

Địa phương Năm

Hà Nội

2010

2014

Bảng 2.3: Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt NamNguồn: vi.wikipedia.orgĐịa phương Năm

STT

Di sản

Hạng mục

1

Nhã nhạc cung đình Huế

Kiệt tác phi vật thể và truyềnkhẩu của nhân loại

Huế

2003

2

Không gian văn hóa Cồng ChiêngTây Nguyên

Kiệt tác phi vật thể và truyềnkhẩu của nhân loại

Tây Nguyên

2005

3

Dân ca Quan họ

Di sản phi vật thể đại diện chonhân loại

Bắc Ninh

2008

4

Ca trù

Di sản phi vật thể đại diện chonhân loại cần bảo vệ gấp

Bắc Bộ

2009

5

Hội Gióng tại đền Phù Đổng vàđền Sóc, Hà Nội

Di sản phi vật thể

Hà Nội

2009

6

Hát xoan

Di sản phi vật thể

Phú Thọ

2010

7

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Di sản phi vật thể đại diện chonhân loại

Phú Thọ

2011

8

Đờn ca tài tử Nam Bộ

Kiệt tác phi vật thể và truyền

Nam Bộ

2012

Kiệt tác phi vật thể và truyền Nghệ An –khẩu của nhân loạiHà TĩnhDi sản vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận

Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh

2.2. Quần thể di tích Cố đô Huếvietnamtourism.gov.vn

2.4. Thánh địa Mỹ Sơnvietnamtourism.gov.vn

2013

2.3. Vịnh Hạ Longvietnamtourism.gov.vn

2.5. Phố cổ Hội Anvietnamtourism.gov.vn

2.7. Hoàng Thành Thăng Long

2.6. Phong Nha-Kẻ Bàngthiennhien.net

2.8. Thành Nhà Hồwww.dulichvn.org.vn

vietnamtourism.gov.vn

2.9. Quần thể danh thắng Tràng Anvietnamtourism.gov.vn

2.1.2. Lễ hộiLà sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. “Lễ” là hệ thống nhữnghành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánhnhững ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa cókhả năng thực hiện. “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng,xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.2.1.2.1. Thống kê lễ hộiTheo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo(chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác(chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, HảiDương và Phú Thọ.

Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốcgia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc riêng. Chínhnhững nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam.Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là vùng văn hóarất đặc trưng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp mọimiền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn được duytrì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tônlà nhân thần hay nhiên thần. Đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹpnhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựngmột cuộc sống tốt lành, yên vui.Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa Xuân và số ít vào mùaThu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có thời gian nhànrỗi. Trong số các lễ hội Việt Nam thì phải kể đến những lễ hội chi phối hầu hết các giađình trên mọi miền tổ quốc, đó là Tết Nguyên Đán, Lễ Vu Lan và tết Trung Thu. Gầnđây một số lễ hội được nhà nước và nhân dân quan tâm như: Lễ hội đền Hùng,Lễ hộiTịch điền Đọi Sơn,Giáng Sinh, Hội Phật Tích.Một số lễ hội lớn ảnh hưởng cả một vùng rộng lớn, tiêu biểu như: hộiGióng (xứ Kinh Bắc), lễ hội đền Hùng (Xứ Đoài), lễ hội chùa Bái Đính, Hội Lim(Kinh Bắc) phủ Dày,(xứ Sơn Nam), lễ hội Yên Tử, lễ hội bà chúa Xứ (An Giang), Lễhội pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng)…2.1.2.2. Phân cấp lễ hộiKhác với các di tích Việt Nam đã được kiểm kê và phân cấp theo quy định, cáclễ hội ở Việt Nam chưa được quy định phân cấp bài bản. Có những lễ hội bị biếntướng, trần tục hoá, mở hội tràn lan… nhiều ý kiến đề xuất việc kiểm kê các lễ hộitrên toàn quốc để tiến tới phân cấp lễ hội theo các cấp: lễ hội cấp quốc gia, lễ hội cấptỉnh, lễ hội cấp huyện và lễ hội cấp làng. Theo bà Lê Thị Minh Lý – Phó Cục trưởngCục Di sản Văn hoá, điểm yếu trong việc quản lý lễ hội hiện nay đó là chưa có cơ sởdữ liệu khoa học và quan điểm tiếp cận đúng. Không nên đánh đồng giữa lễ hội vàfestival.Tùy vào từng thời điểm, vào chủ thể mà lễ hội hiện nay được tổ chức ở nhiềucấp khác nhau. Ví dụ như lễ hội đền Hùng được tổ chức ở quy mô quốc gia 5 năm/lần. Những năm số lẻ thì lại được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh. Các lễ hội thường đượctổ chức ở quy mô cấp tỉnh như hội Lim, lễ hội Lam Kinh (Thanh Hóa), lễ hội đềnTrần (Nam Định)… Các lễ hội ở quy mô cấp huyện tiêu biểu như lễ hội đền NguyễnCông Trứ ở Kim Sơn (Ninh Bình) vàTiền Hải (Thái Bình) để tưởng niệm người chiêu

Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn

Posted on by tailieudulich

2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn (TNDLNV) 2.3.1. Quan niệm. TNDLNV nói một cách ngắn gọn, là các đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. TNDLNV có các đặc điểm sau: – Có tác dụng nhận thức nhiều hơn. Tác dụng giải trí không điển hình hoặc chỉ có ý nghĩa thứ yếu. – Việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo thường diễn ra trong thời gian ngắn. – Số người quan tâm tới TNDLNV thường có văn hoá cao hơn, thu nhập và yêu cầu cao hơn. – TNDLNV thường tập trung ở các điểm quần cư và thành phố lớn. – Ưu thế của TNDLNV là đại bộ phận không có tính mùa vụ (trừ các lễ hội), không bị phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khí hậu và các điều kiện tự nhiên khác. – Sở thích của những người tìm đến TNDLNV rất phức tạp và rất khác nhau… 2.3.2. Các loại TNDLNV. a. Các di sản văn hoá thế giới và di tích lịch sử – văn hoá. * Di sản văn hoá thế giới . – Các tiêu chuẩn của văn hoá thế giới (6 tiêu chuẩn). + Là các tác phẩm nghệ thuật độc nhất vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài năng con người. + Có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật cấu tạo không gian trong một thời kỳ nhất định, trong một khung cảnh văn hoá nhất định. + Chứng cớ xác thực cho một nền văn minh đã bị biến mất. + Cung cấp một ví dụ hùng hồn về một thể loại xây dựng hoặc kiến trúc phản ánh một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa. + Cung cấp một ví dụ hùng hồn về một dạng nhà truyền thống nói lên được một nền văn hoá có nguy cơ bị huỷ hoại trước những biến động không thể cưỡng lại được. + Có mối quan hệ trực tiếp với sự kiện, tín ngưỡng đáp ứng được những tiêu chuẩn xác thực về ý tưởng sáng tạo, về vật liệu, về cách tạo lập cũng như về vị trí. – Nhìn chung, các di sản văn hoá thế giới là kết tinh cao nhất của những sáng tạo văn hoá một dân tộc. Bất cứ một quốc gia nào nếu có những di tích được công nhận là di sản văn hoá thế giới thì không những là một tôn vinh lớn cho dân tộc ấy, mà còn là nguồn tài nguyên quý giá, có sức hút khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế. Hết năm 2006, trên toàn thế giới Hội đồng di sản thế giới đã công nhận được 840 di sản. Nước ta có 7 di sản thế giới, trong đó có 5 di sản văn hoá gồm cố đô Huế (công nhận năm 1993), tháp Chàm Mỹ Sơn (1999), đô thị cổ Hội An (1999) nhã nhạc cung đình Huế (2003), cồng chiêng Tây Nguyên (2005) và 2 di sản tự nhiên gồm vịnh Hạ Long (1994) và Phong Nha – Kẻ Bàng (2003). Trong số các di sản thế giới phải kể tới 7 kỳ quan do bàn tay khối óc con người tạo ra tập trung ở những nôi của nền văn minh nhân loại. Đây là 7 kỳ quan kỳ diệu được khắc mốc ghi tên từ thế kỷ VI sau công nguyên, như những chứng tích điển hình. Cụ thể là: Kim tự tháp Ai Cập. Vườn treo Babilon (Irắc). Tượng khổng lồ Hêliốt trên đảo Rốt (Hy lạp). Lăng mộ vua Môdôn ở Halicacnasơ (Thổ Nhĩ Kỳ). Đền thờ nữ thần Actêmis ở Ephedo (Thổ Nhĩ Kỳ). Tượng thần Rớt trong ngôi đền tại Olympia (Hy Lạp). Ngọn hải đăng ở Alêcxanđria (Ai Cập). Trong 7 kỳ quan trên, chỉ còn kim tự tháp Ai Cập là vẫn tồn tại * Các di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá Di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá là tài sản quý giá của mỗi địa phương, mỗi dân tộc, đất nước và cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể về đặc điểm văn hoá mỗi nước. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hoá nghệ thuật của mỗi quốc gia. Di tích lịch sử – văn hoá có khả năng rất lớn góp phần vào việc phát triển trí tuệ, tài năng của con người; góp phần vào việc phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch sử. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Trên thế giới những kim tự tháp ở Ai Cập, chùa tháp dát vàng, bạc ở Ấn Độ, Mianma, Angcovát ở Campuchia… và trong nước với thành Cổ Loa, đền Hùng, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn… vẫn mãi là biểu tượng chói ngời cho kho tàng văn hoá dân tộc và của nhân loại. Được gọi chung là di tích lịch sử – văn hoá vì chúng được tạo ra bởi con người (tập thể hoặc cá nhân) trong quá trình hoạt động, sáng tạo. Thứ văn hoá ở đây bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Hiện nay, một số nước trên thế giới đã có những quy định về di tích lịch sử văn hoá. – Theo hiến chương Vơnidơ – Italia (1996) thì di tích lịch sử văn hoá bao gồm những công trình xây dựng lẻ loi, những khu di tích ở đô thị hoặc nông thôn, là những bằng chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hoá có ý nghĩa hay là một biến cố về lịch sử. – Ở Ai Cập (1983) cho rằng các di tích lịch sử – văn hoá là cổ vật bất động sản và động sản. Cụ thể “Được coi là cổ vật mọi động sản hoặc bất động sản được làm ra từ các nền văn minh khác nhau, hoặc một sáng tạo nghệ thuật, khoa học, văn hoá, hoặc tôn giáo của thời đại tiền sử, hoặc các thời kỳ kế tiếp nhau của lịch sử và ngược trở lên một trăm năm, khi tài sản đó có một giá trị quan trọng về khảo cổ học hay lịch sử, là chứng cứ của một nền văn minh khác nhau đã tồn tại trên đất Ai Cập, đã có với đất nước Ai Cập những qua hệ lịch sử, cũng được coi là cổ vật, kể cả các di hài người và động vật cùng niên đại với thời kỳ ấy”.

Filed under: TÀI LIỆU THAM KHẢO, TỔNG QUAN DU LỊCH |

Luận Văn Đề Tài Đánh Giá Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Tỉnh Ninh Bình

Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tƣợng kinh tế – xã hội phổ biến không chỉ ở các nƣớc phát triển mà ở cả các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việc đầu tiên khi tập trung phát triển du lịch là phải nhận diện tiềm năng du lịch. Du lịch là ngành có định hƣớng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch càng phong phú đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả của hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. Do vậy việc tìm hiểu đánh giá tài nguyên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển du lịch. Ninh Bình là một tỉnh cực nam của đồng bằng Bắc Bộ, có vị trí địa lý và hệ thống đƣờng sắt, đƣờng bộ, đƣờng thủy rất thuận tiện cho giao lƣu phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội. Đặc biệt Ninh Bình nằm ở vùng cửa ngõ miền Bắc Việt Nam cách thủ đô Hà Nội 93km là một trong những trung tâm du lịch lớn nhất cả nƣớc. Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của nƣớc Việt thế kỉ X mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc 3 triều đại Đinh, Lê, Lý với những dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống – dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô ở Hà Nội. Với lịch sử hàng ngàn năm dựng nƣớc đã tạo nên Ninh Bình thành một vùng đất thiêng, nơi phát tích của nhiều danh nhân, anh hùng dân tộc nhƣ: anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, Trƣơng Hán Siêu Đây cũng là miền đất cội nguồn, là kho tàng của văn hóa dân gian đặc sắc của miền đồng bằng Bắc Bộ, với những làn điệu hát chèo, hát chầu văn cùng với những di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng nhƣ: Cố đô Hoa Lƣ, chùa Bái Đính, nhà thờ đá Phát Diệm. Với nguồn tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn đặc sắc đó đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch tỉnh thành một ngành kinh tế quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nƣớc.

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

Thư viện tài liệu Phong Phú

Hỗ trợ download nhiều Website

Nạp thẻ & Download nhanh

Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

Nhận nhiều khuyến mãi

Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY

DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN

Tài Nguyên Văn Hóa Là Đặc Sắc Của Du Lịch Việt Nam

Văn hóa là khái niệm rất rộng, bao trùm mọi hành vi, ứng xử của con người trong cuộc sống; trong đó có du lịch. Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên văn hóa.

Tài nguyên du lịch tự nhiên cũng phục vụ nhu cầu văn hóa của con người. Ở nghĩa hẹp hơn, người ta nói nhiều đến văn hóa du lịch. Không có thuật ngữ du lịch văn hóa như một loại hình, bên cạnh du lịch sinh thái, thể thao, nghỉ dưỡng…

Theo Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên thế giới (World Wide Fund For Nature – WWF), Việt Nam xếp 30/140 quốc gia về tài nguyên văn hóa.

Tổ chức giải thưởng du lịch thế giới (World Travel Awards – WTA) đề cử Việt Nam là điểm đến văn hóa hàng đầu của du lịch toàn cầu. Đa phần du khách, cả trong nước và quốc tế, đều mong muốn được trải nghiệm những khác biệt về văn hóa Việt Nam và chưa được thỏa mãn.

Du khách có phần ấm ức, thất vọng. Người trong cuộc thì vò đầu, bứt tai than “Lực bất tòng tâm” hoặc “Quân ta hại quân mình”; kiểu một người xây, mấy kẻ phá. Người xưa từng dạy “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Phải nhấn mạnh vế đầu, vế sau không đáng kể. Vấn đề là có dám nhìn thẳng vào những sự thật hay không.

Những sự thật trần trụi

Du lịch vốn là một phần tất yếu (chứ không phải tất cả) của văn hóa. Tổng cục Du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch. Thể thao cũng là văn hóa. Chữ văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa là nghệ thuật. Tiếng Việt phong phú đến rối ren do cách dùng tùy tiện. Trong lý lịch cá nhân, có phần “Trình độ văn hóa” thay vì “Trình độ học vấn”. Tương tự, các cụm từ “Học văn hóa”, “Bổ túc văn hóa”; phải được thay bằng “học chữ”, “học nghề” (đủ thứ).

Lễ hội Tịch điền ở Hà Nam.

Trong kinh doanh, ngoài chất lượng thì yếu tố quyết định thành công là sự khác biệt tích cực. Phải viết như vậy để phân biệt với sự khác biệt dị hợm, tiêu cực. Ngon và đẹp thì tùy cảm nhận của từng người, từng vùng nhưng lạ thì dễ dàng thống nhất. “Nửa ký của lạ bằng mấy tạ của quen” là vậy. Việt Nam có rất nhiều cái lạ. Đáng tiếc là cái lạ bản sắc, tích cực thì ít được giữ gìn và phát triển. Cái lạ tiêu cực thì cứ sinh sản vô tính.

Ai cũng biết, các cửa khẩu là ấn tượng đầu tiên của du khách về bộ mặt quốc gia cần được chăm chút. Đáng buồn vì Việt Nam vẫn có nhiều nơi đang đón khách bằng thủ tục hành chính rườm rà. Cả thái độ lẫn tinh thần phục vụ của nhân viên đều có vấn đề, chưa kể trình độ ngoại ngữ; khác hẳn với sự thân thiện của người dân và truyền thống hiếu khách của dân tộc. Cứ tưởng là mấy chuyện nhỏ nhưng tác hại lớn, tạo nên những khó chịu, bực dọc và thành kiến tiếp theo, nhất là những ai lần đầu đến Việt Nam.

Vào “nhà” thì rối ren đủ thứ. Trái với các nước phát triển, xe cộ ở Việt Nam là hung thần của người đi bộ. Giao thông hỗn loạn, không kiểm soát được, dù cảnh sát giao thông mai phục khắp chốn. Ở TP.HCM còn có lực lượng áo xanh đông đảo phất cờ làm kiểng. An ninh của du khách thường xuyên bị đe dọa. Từ vấn nạn chặt chém của taxi, nhà hàng đến giựt dọc trên đường phố. Du khách bị khủng bố tinh thần vì thiếu nhà vệ sinh hoặc có mà dơ bẩn, vì phập phồng cướp giật, vì vệ sinh môi trường lẫn vệ sinh thực phẩm. Chất lượng các dịch vụ chưa thể so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực.

Một góc chợ nổi Phụng Hiệp ở Hậu Giang.

Vì những ý muốn chủ quan của các nhà quản lý, không ít di sản văn hóa bị xóa sổ. Chùa Bái Đính cổ gần như biến mất. Thay vào đó là chùa mới, to vật vã nhưng dường như…vô hồn. Đường xe lửa răng cưa Phan Rang – Đà Lạt bị tháo dỡ, các đầu máy được bán sắt vụn cho Thụy Sĩ. Họ mua về làm du lịch, vẫn lịch sự giữ nguyên dòng chữ “Toa xe Đà Lạt”. Ngay cả cầu Bến Hải cũng bị tháo dỡ. Báo chí và dư luận lên tiếng, cầu được phục chế.

Đáng tiếc nhất là việc di dời chợ nổi Ngã Bảy Phụng Hiệp (Hậu Giang), đã xóa sổ thương hiệu lừng danh hơn trăm năm của cả khu vực Đông Nam Á. Gần nhất là việc tháo dỡ cầu Gành (Đồng Nai) hơn trăm tuổi. Rồi thì hàng ngàn biệt thự cổ biến mất khó hiểu ở khắp đất nước, nhiều nhất là ở Hà Nội và TP.HCM…

Những dị biệt tiêu cực này lấn áp các khác biệt tích cực. Đó là ẩm thực phong phú, món ngon đường phố đa dạng. Là internet phổ cập miễn phí và dễ dàng. Là dịch vụ “Door to door” của vận chuyển liên tỉnh. Là cảnh quan và di sản đẹp, lạ. Là những phong tục tập quán đặc thù. Là lịch sử sôi động và bi tráng. Đất nước rất ổn định về chính trị nhưng lại… chưa dám mở cửa cho du khách vui chơi và tiêu tiền thoải mái. Mọi thứ cứ khác thiên hạ. Thứ gì các nước chặt thì ta lỏng và ngược lại.

Việt Nam tự hào với lịch sử mấy ngàn năm văn hiến nhưng cách chào lai căng đủ kiểu. Cũng không có quốc phục riêng và những giai điệu dân gian đặc trưng được thừa nhận. Không có kiến trúc đặc thù…Ẩm thực Việt Nam rất phong phú nhưng văn hóa ẩm thực thì hổ lốn. Chẳng nơi nào có kiểu vừa ăn vừa xem ca múa nhạc tạp kỹ phổ biến như Việt Nam. Nhiều nơi, vừa du thuyền trên sông, vừa ăn uồng và thưởng thức nghệ thuật tổng hợp. Tác phong làm việc lề mề nhưng ăn rất nhanh, vừa ăn ngồm ngoàm vừa nói chuyện ồn ào. Văn hóa gắp đồ ăn cho khách lậm vào trong kinh doanh lẫn cuộc sống, cứ thích làm theo ý mình, nhất là lãnh đạo. Thói quen dùng đũa, muỗng chung; vừa mất vệ sinh vừa kỳ cục.

Nhà vệ sinh, nơi thể hiện tính cách cá nhân rõ nét nhất, nơi thỏa mãn nhu cầu quan trọng nhất của con người luôn bị xem nhẹ. Ngược lại là thói khoa trương, bệnh thành tích, sính bằng cấp và coi thường thực tiễn. Hiệu ứng ghiền bê tông, thích xây mới lòe loẹt vô hồn đang phá vỡ cảnh quan nhiều danh thắng và cả vườn quốc gia.

Các di tích bị xâm hại nghiêm trọng. Bảo tồn và trùng tu mà như phá hoại. Các công trình kiến trúc cổ xuống cấp, ngày càng bị xâm lấn và xóa sổ dần. Thời bao cấp ấu trĩ đành chịu, mất mát vô kể. Thời đổi mới mở cửa, vẫn tồn tại nghịch lý bảo tồn và phát triển. Việc xâm hại và xóa sổ di tích không trắng trợn mà tinh vi, núp dưới nhiều chiêu bài và danh nghĩa. Bản sắc văn hóa Việt đang ngày càng mai một!

Đôi điều góp ý

Nếu áo dài, cả nam lẫn nữ, được công nhận là quốc phục chính thức bằng văn bản pháp luật của Quốc hội thì đã không có chuyện nhà tạo mẫu ở Trung Quốc ăn cắp mẫu mã, vơ vào của mình. Áo dài, từng là quốc phục, bị phê phán và tẩy chay thời bao cấp. Có lãnh đạo từng cho rằng đó là tàn dư phong kiến, rườm rà, “một áo dài may được hai áo ngắn”. Việt Nam cũng từng có cách chào đặc thù nhưng bị xóa sổ vì ấu trĩ.

Áo dài Việt Nam – trang phục chính của hội nghị Apec Hà Nội 2006.

Việc đầu tiên là phải xác định lại quốc phục và cách chào Việt Nam như tổ tiên mình từng công nhận. Việc quan trọng nhất là thay đổi nhận thức về văn hóa dân tộc, gạn đục khơi trong, lấy truyền thống làm nền tảng cho hiện đại. Đoạn tuyệt với tư duy “Lãnh đạo đồng nghĩa với khoa học” và “Quản không được thì cấm”. Loại bỏ văn hóa gắp đồ ăn cho khách; dùng đũa, muỗng chung; vừa ăn vừa nghe xem đủ thứ…

Chống quan điểm cực đoan trong bảo tồn và phát triển. Cặp phạm trù này không hề có mâu thuẫn đối kháng. Thực tế cho thấy chỉ có mâu thuẫn giữa các chủ đầu tư và cộng đồng. Muốn bảo tồn phải biết trùng tu và phát triển. Ngược lại muốn phát triển bền vững phải biết bảo tồn. Tuyên chiến với vấn nạn bê tông hóa mọi nơi mọi lúc.

Truyền thống thân thiện, hiếu khách của người Việt phải được thể hiện rõ nhất tại các cửa ngõ của đất nước cho đến các cơ quan công quyền, các cơ sở dịch vụ. Như nhân viên cửa khẩu Đài Loan, Myanmar…luôn tươi cười, tận tình hỗ trợ du khách và không ngừng nói lời cảm ơn.

Campuchia mở cửa Hoàng Cung cho khách tham quan với giá vé 10 USD mỗi người trong ngày. Buổi nào quốc vương tiếp khách thì đóng cửa. Nhà khách vua Sihanouk ở Siem Riep được biến thành khách sạn cổ sang trọng Grand Angkor Hotel với tấm thảm đỏ in dấu chân nhiều nguyên thủ quốc gia. Nhà khách mới của Quốc vương Sihamoni nhỏ và đơn giản hơn nhiều. Việt Nam có thể làm tương tự với Phủ Chủ tịch, trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố và nhiều tỉnh thành khác.

Hoàng cung Brunei được chuyển thành phức hợp The Empire Hotel Country Club tương đương 6 sao. Phòng ở của vua Bokiah trước đây có giá bán tới hơn 20.000 USD/đêm. Xu thế các nước là ưu tiên cho phát triển du lịch và tận dụng mọi thứ để du lịch phát triển vì đây là ngành công nghiệp xuất khẩu tại chỗ rất hiệu quả.

Trái cây kết thành tác phẩm nghệ thuật ở lễ hội Trái cây Nam bộ tại Suối Tiên, TPHCM.

Các tỉnh thành Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển các trụ sở hoành tráng để làm du lịch. Baan Tong Luang (Chieng Mai, Thái Lan), Mari – Mari (Kinabalu, Malaysia) là làng văn hóa các dân tộc đúng nghĩa; là những mô hình có thể vận dụng tại Việt Nam thay cho những công viên văn hóa các dân tộc, hoành tráng mà tốn kém (tốn tiền, kém hiệu quả). Hai cường quốc du lịch dẫn đầu thế giới là Pháp và Tây Ban Nha đều hấp dẫn và thu hút khách bằng những trải nghiệm văn hóa khác biệt, đa dạng.

Có thể thay đường hoa Nguyễn Huệ bằng sông hoa Sài Gòn/TPHCM. Mở rộng các chợ đêm và phố đi bộ như ở Đài Loan, Thái Lan; tạo thành những công viên văn hóa sống động vào buổi tối. Tổ chức cho du khách trải nghiệm ẩm thực, học cách chế biến các món ngon Việt Nam và các sự kiện gia đình như “Thôi nôi”, “Đám hỏi”, “Đám cưới”, “Đám giỗ”, các hoạt động Tết…

Xây dựng homestay chuẩn quốc gia theo mô hình các homestay A Chu (Sơn La), Minh Thơ (Hòa Bình), Xuân Diện (Lào Cai)…Phát triển các lễ hội tích cực như Đua bò (An Giang); Trái cây Nam bộ, Ẩm thực đường phố, Món ngon các nước, Áo dài (Sài Gòn); Bánh dân gian (Cần Thơ), Ook om bok – Đua ghe ngo (Sóc Trăng), Minh thề (Hải Phòng), Tịch điền (Hà Nam), Trâu rơm bò rạ (Vĩnh Phúc)…

Chấm dứt các lễ hội dã man như Đâm trâu (thật ra là tế trâu hay khóc trâu – Tây Nguyên và Quảng Nam), Chém lợn (Bắc Ninh), Chọi trâu (Hải Phòng)… Chấn chỉnh những lễ hội biến tướng thành dịp buôn bán, hối lộ thần thánh như “cướp ấn, cướp lộc” và các lễ hội chùa, các festival thực chất chỉ có tính hình thức…Để tận dụng và phát tiển tài nguyên văn hóa một cách hiệu quả, cần có qui hoạch khoa học, dài hơi và đồng bộ.

Làm du lịch là làm kinh tế chứ không phải làm phong trào, chạy theo số lượng và hình thức để báo cáo. Dĩ nhiên không làm kinh tế bằng mọi giá mà phải cân nhắc chọn lọc để phát triển bền vững. Nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản…sau nhiều thập niên kinh tế tăng trưởng nóng đã chấp nhận chậm lại. Họ hạn chế phát triển sản xuất nội địa, ưu tiên xuất khẩu công nghiệp, đẩy mạnh các dịch vụ du lịch để xuất khẩu tại chỗ và lấy văn hóa đặc thù làm nền tảng.

Sự “dốt nát chân thật” (Trần Việt Phương) là lời cảnh báo về cách làm tùy tiện của nhiều địa phương, đã vô tình cản trở du lịch. Nguy hại hơn, đó là những hành động hủy diệt văn hóa dân tộc. Một dân tộc sẽ tiêu vong khi đánh mất bản sắc văn hóa. Chúng ta phải tự hào rằng: bản sắc Việt vẫn vững vàng với trang phục, chữ viết, ngôn ngữ và nhiều phong tục khác biệt và đặc sắc sau hàng ngàn năm bị đô hộ, qua nhiều cuộc chiến khốc liệt để giữ nước.

Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ để phát triển du lịch. Đó còn là cách tốt nhất để bảo vệ độc lập và chủ quyền lãnh thổ mà tổ tiên người Việt đã làm rất tốt mấy ngàn năm nay.

(*) Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả Nguyễn Vũ Mộc Thiêng

Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn (Humanistic Tourism Resources) Là Gì?

Khái niệm

Tài nguyên du lịch nhân văn trong tiếng Anh được gọi là Humanistic tourism resources.

Toàn bộ của cải vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra từ xưa đến nay có thể thu hút con người tiến hành hoạt động du lịch được xem là tài nguyên du lịch nhân văn.

Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể sử dụng phục vụ mục đích du lịch.

Theo cách hiểu này, chúng ta có thể xem tài nguyên nhân tạo chính là tài nguyên nhân văn.

Nhu cầu của con người là muốn tìm hiểu về lịch sử, cội nguồn của chúng ta cũng như nghiên cứu những nét văn hóa khác nhau giữa những cộng đồng dân tộc trên thế giới.

Chính vì vậy mà tài nguyên du lịch nhân tạo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút những đối tượng khách du lịch thích tìm hiểu khám phá văn hóa, lịch sử.

Các thành phần của tài nguyên

Để đi sâu tìm hiểu giá trị tài nguyên nhân tạo chúng ta có thể phân tích các thành phần của tài nguyên nhân tạo như sau:

Di sản văn hóa thế giới và di tích lịch sử – văn hóa

Đây được coi là nguồn tài nguyên quan trọng, là nguồn lực để phát triển và mở rộng hoạt động du lịch.

Qua các thời đại, các di sản văn hóa thế giới và di tích lịch sử văn hóa đã minh chứng cho những hoạt động sáng tạo vĩ đại của xã hội loài người về văn hóa, tôn giáo và xã hội. Các di sản văn hóa thế giới và di tích lịch sử thích hợp để phát triển loại hình du lịch văn hóa, nghiên cứu,…

Lễ hội

Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc phản ánh đời sống tâm linh của mỗi dân tộc hay là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả, hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính chất vui chơi giải trí.

Bất kì lễ hội nào cũng có hai phần chính là: phần lễ và phần hội. Cả hai phần đều thu hút sự tham gia của du khách.

Đối tượng du lịch gắn với dân tộc học

Đối tượng du lịch gắn với dân tộc học bao gồm: điều kiện sinh sống, đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất với những sắc thái riêng của các dân tộc trên địa bàn cư trú của họ. Những đặc trưng này có sức thu hút khách du lịch mạnh mẽ.

Đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác

Tài nguyên du lịch này chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn và cũng làm một trong những đối tượng thu hút khách du lịch mạnh mẽ, bao gồm: các trung tâm, viện khoa học, trường đại học, thư viện lớn và nổi tiếng, các trung tâm kinh tế – thương mại, thành phố có triển lãm nghệ thuật, tổ chức liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc tế, cuộc thi hoa hậu,…

Những thành phố có đối tượng văn hóa hoặc tổ chức những hoạt văn hóa thể thao đều được nhiều du khách lựa chọn làm điểm đến du lịch trong hành trình của họ và đều trở thành những trung tâm văn hóa du lịch.