Bạn đang xem bài viết Văn Hóa Du Lịch Mối Quan Hệ Trong Việc Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
18 Tháng Giêng 2023 9033 lượt xem
Đặt vấn đề
Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Khi xác định hướng đi “văn hóa gắn với du lịch”, người làm du lịch phải có một trình độ nhất định, được đào tạo bài bản về văn hóa nghệ thuật, để có thể tạo được những hiệu ứng từ các hoạt động biểu diễn, lưu lại được những giá trị và ấn tượng văn hóa trong lòng du khách, chứ không chỉ khai thác ánh sáng, âm thanh, mầu sắc đơn thuần…
Như là một biểu thị của nhu cầu mang “tính người”, du lịch dưới bất cứ hình thức nào cũng hướng tới việc tiếp xúc, giao lưu, học hỏi và mở mang về văn hóa. Trong bối cảnh ngành du lịch ở Việt Nam đang trên đà phát triển, song vẫn tồn tại một số bất cập, thì lĩnh vực này cũng cần được xem xét từ góc nhìn văn hóa. Khi xác định du lịch như hành vi thỏa mãn văn hóa, cũng tức là cần xác lập các tiêu chí để làm nên một “văn hóa du lịch”. Thiết nghĩ, văn hóa du lịch được thể hiện trên hai phương diện: một là văn hóa của du lịch và hành vi văn hóa của người làm du lịch. Văn hóa của du lịch là dấu ấn riêng, độc đáo, tạo nên bản sắc của văn hóa mỗi cộng đồng. Ðó là yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn đối với du khách.
Mối quan hệ văn hóa và du lịch ?
Trong những năm gần đây có một vài nhận xét cho rằng, văn hóa và du lịch đã có sự gắn kết, tuy nhiên đó mới chỉ là mang tính tự phát, nên chưa thực sự phát huy hiệu quả. Du lịch và văn hóa cần nhìn về một hướng. Nguyên nhân của hiện trạng này thuộc về cả hai phía. Hầu hết các đơn vị văn hóa chưa xây dựng chương trình biểu diễn trở thành sản phẩm du lịch, hay nói cách khác chưa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch. Các công ty lữ hành hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch nhưng chưa thực sự nhập cuộc, không chủ động giới thiệu với khách những sản phẩm văn hóa của dân tộc. Một lý do nữa là kinh phí và nhân lực của các hoạt động biểu diễn đa phần được hoạch định một cách cảm tính, nhiều thay đổi, không theo xu hướng kinh tế thị trường mang mầu sắc thực sự là sản phẩm du lịch, mà theo xu hướng làm nghệ thuật, gây nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chuyên nghiệp.
Nói mối quan hệ văn hóa và du lịch, người ta thường nghĩ đến những lễ hội. Những lễ hội cũng là một phần quan trọng của đời sống văn hóa, có hàm chứa yếu tố nghệ thuật. Nhưng không phải cứ có biểu diễn nghệ thuật là trở thành lễ hội, mặt khác những lễ hội được tổ chức phần nào sơ sài, dàn trải bốn mùa trong năm, ở hầu như tất cả các địa phương trên cả nước, đã bắt đầu cho thấy sự nhàm chán và lặp lại nhau, chưa nói đến sự phản cảm khi khâu tổ chức làm sơ sài, đơn điệu. Phần lớn các chương trình khai trương lễ hội du lịch hiện nay mang tính chất “sân khấu hóa” và có xu hướng lễ hội hóa ở tất cả các địa phương có một kịch bản na ná giống nhau… Ở một góc nhìn khác, tình trạng mô phỏng, manh mún, thiếu sáng tạo trong xây dựng văn hóa của du lịch còn được bổ sung bởi hành vi thiếu “tính văn hóa” của một số người làm du lịch, trong một số trường hợp họ đã làm thất vọng du khách. Thái độ thiếu niềm nở, hay miễn cưỡng niềm nở khi đón tiếp du khách là hình ảnh còn gặp mỗi khi tới các điểm du lịch.
Thổi hồn văn hóa vào du lịch…
Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục… gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ.
Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.
Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số nước thuộc khu vực Nam Mỹ….
Hầu hết các quốc gia thường khai thác các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, lễ hội, thể thao, giải trí… để phát triển du lịch. Sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa nghệ thuật và du lịch đã làm cho những sự kiện văn hóa, nghệ thuật trở thành một thương hiệu của một lễ hội vượt ra khỏi tầm địa phương, quốc gia mà còn là mang một giá trị của thế giới.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tổ chức rất thành công những sự kiện lớn gây được sự chú ý đến các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Có thể kể đến như Festival nghệ thuật Huế, Festival biển Nha Trang, Carnavan biển Hạ Long, Festival cồng chiêng Tây Nguyên, Hành trình Di sản miền Trung… Những lễ hội trên đã trở thành “hiệu ứng văn hóa” không chỉ còn của địa phương mà là sự hòa quyện, giao thoa của văn hóa Việt Nam với các đoàn nghệ thuật trên thế giới cùng tham gia để lại trong lòng du khách bốn phương.
Việt Nam, ngoài những tiềm năng du lịch đã được khai thác như cảnh quan thiên nhiên, nghỉ dưỡng, ẩm thực, chữa bệnh… còn một tiềm năng ở tầm sâu hơn, nhưng hứa hẹn một khả năng phát triển phong phú bội phần, đó là tiềm năng văn hóa nghệ thuật. Gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần của người Việt, với non nước hữu tình của dân tộc Việt, những hình thái nghệ thuật đã trở thành một phần không thể thiếu, có thể xem như linh hồn của người Việt. Nhưng bao nhiêu năm qua, chúng ta chỉ quan tâm khai thác du lịch bằng cái thế giới bên ngoài, cái thế giới vật chất hữu hình, với những ưu đãi của thiên nhiên, mà ít quan tâm đến việc giới thiệu đời sống tinh thần của dân tộc. Nếu những giá trị ấy được giới thiệu một cách chiến lược, có phong cách, có định hướng thì du lịch Việt Nam mới có thể có được cái bản sắc độc đáo riêng, không hề lặp lại bất kỳ ai khác trong thế giới du lịch đang ngày một phát triển phong phú và đa dạng hiện nay. Hãy làm khơi dậy và khai thác những di tích lịch sử, những truyền thuyết, những giá trị văn hóa nghệ thuật trở thành những sản phẩm du lịch, chương trình du lịch độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Câu chuyện khai thác giá trị văn hoá làng nghề truyền thống trong việc phát triển du lịch cộng đồng
Trong những năm qua, ngành du lịch đã có những bước phát triển đáng kể khi nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng các khu du lịch lớn nhằm khai thác lợi thế về cảnh quan, lịch sử, văn hóa, con người để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các nhà đầu tư đang chuyển dần sang xây dựng các điểm du lịch mới mang tính tiên tiến, hiện đại. Trong khi đó, du lịch lễ hội văn hóa, làng nghề truyền thống là một thế mạnh và nét đặc trưng vốn có của du lịch Việt Nam. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với khách du lịch quốc tế khi đến tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Việc khai thác và phát huy các làng nghề truyền thống như một chiến lược phát triển bền vững gắn với cộng đồng dân cư địa phương. Đồng thời giữ gìn những nét bản sắc văn hóa của các địa phương đã đi vào tiềm thức của quốc gia, của dân tộc.
Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với các thôn xóm và các làng nghề, đó là những đặc trưng cơ bản trong truyền thống kinh tế, văn hóa của xã hội nông thôn Việt Nam. Hiện đại hóa công nghệ truyền thống và truyền thống hóa công nghệ hiện đại là một nội dung của chiến lược công nghiệp hóa ở Việt Nam. Các làng nghề sẽ là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại và là nấc thang phát triển quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa nông thôn nước ta. Chúng đã góp phần đáng kể đối với sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đặc biệt hơn cả là đối với vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động.
Làng nghề du lịch là một không gian lãnh thổ nông thôn, ở đó người dân không những tổ chức sản xuất một hoặc một số sản phẩm thủ công truyền thống mà còn cung cấp các dịch vụ phục vụ và thu hút khách du lịch. Phát triển du lịch làng nghề được coi là một hướng đi rất quan trọng để gìn giữ, giới thiệu, bảo tồn và tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc, của quốc gia. Phát triển mô hình du lịch làng nghề còn có tác dụng hỗ trợ đắc lực cho khu vực nông thôn chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững trong tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, ở mỗi làng nghề du lịch là sự kết hợp với tìm hiểu văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán của bản thân làng nghề đó, để có thể tìm ra những nét độc đáo, gây ấn tượng cho du khách. Nếu trong một chương trình du lịch đúng dịp làng nghề tổ chức các lễ hội tôn vinh tổ nghề thì đó sẽ là dịp may hiếm có cho du khách và không thể bỏ qua. Các công ty du lịch cần tận dụng tốt những cơ hội như vậy để sắp xếp chương trình và thực hiện đan xen vào những điểm du lịch khác.
Du lịch làng nghề không chỉ đơn thuần là đến xem các nghệ nhân làng nghề làm ra sản phẩm, hay đến mua sắm, tham quan làng nghề mà khách du lịch còn mong muốn được tìm hiểu những giá trị nhân văn trong nó, những giá trị phi vật thể tồn tại hàng ngàn năm. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu khách du lịch thì nên tổ chức, khôi phục lại các lễ hội làng nghề để thấy được xuất xứ làng nghề, ông tổ đã sinh ra nghề… và thấy được nét đẹp trong nghề đó. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi khai thác các làng nghề hoặc lễ hội truyền thống làm sản phẩm kinh doanh du lịch là họ sử dụng hình thức “3 cùng” gần giống với mô hình “homestay”. Đó là khách du lịch “ăn cùng, ở cùng và làm cùng” với những người dân bản địa của một làng nghề truyền thống nào đó. Với hình thức này, việc kéo khách du lịch cùng hòa vào cuộc sống của người dân bản địa sẽ làm cho thời gian của một chương trình du lịch được dài hơn. Đồng thời sự hứng thú đối với khách du lịch sẽ được tăng lên khi chính họ tận hưởng thành quả do chính bàn tay mình làm ra dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân làng nghề.
Một điều dễ nhận thấy là khách du lịch quốc tế đi du lịch Việt Nam thường rất thích tìm hiểu phong tục, tập quán, lối sống của con người Việt Nam, chính vì thế, những chương trình du lịch làng nghề sẽ là cách hay nhất để giới thiệu với bạn bè quốc tế về một Việt Nam đang cố gắng gìn giữ những di sản cha ông để lại và phát huy, sáng tạo nó. Khách đến tham quan làng nghề sẽ được tận mắt chứng kiến những tinh hoa mà cha ông ta để lại và được biết nhiều hơn về văn hóa, lối sống Việt Nam.
Trong các hoạt động của du lịch có tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ ngơi và mua sắm thì việc đến thăm các làng nghề truyền thống luôn giữ một vị trí quan trọng trong chương trình du lịch, là điểm đến thú vị để du khách trong và ngoài nước có cơ hội tham quan, tìm hiểu nghề, mua sắm đồ dùng, mua hàng lưu niệm. Để đáp ứng nhu cầu của du khách, thách thức mới đặt ra đối với các nhà quản lý ngành và các cấp chính quyền địa phương là phải tạo ra sản phẩm làng nghề hấp dẫn, độc đáo mang nét đặc thù riêng nhằm thu hút ngày càng đông các đoàn khách đến địa phương mình đồng thời tạo cơ hội bán hàng tại chỗ tạo thêm công ăn việc làm cho người dân sở tại nhờ dịch vụ du lịch, góp phần tăng nguồn thu cho người dân, tăng ngân sách cho địa phương và xã hội. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng của các cấp chính quyền ở các địa phương, nhưng nhiều năm qua mới chỉ có một số làng nghề được khai thác đưa vào các chương trình du lịch của một số doanh nghiệp lữ hành. Hơn nữa, việc khai thác này cũng còn rất khiêm tốn chưa được tổ chức một cách quy mô lớn, có hệ thống và chủ yếu mang tính tự phát từ phía các doanh nghiệp lữ hành do nhu cầu đa dạng sản phẩm du lịch cho khách trong chương trình du lịch.
Việt Nam có tiềm năng rất to lớn về làng nghề, sản xuất làng nghề và du lịch làng nghề. Đặc biệt, có những làng nghề, phố nghề tồn tại đến cả nghìn năm tuổi. Truyền thống lịch sử về phát triển làng nghề lâu đời, làng nghề truyền thống của là nguồn “tài sản” quý giá của dân tộc ta, đất nước ta. “Tài sản” đó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế – xã hội mà còn thể hiện nền văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Sự phát triển của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống hiện nay là một xu hướng tất yếu khách quan. Dưới góc độ của du lịch, làng nghề truyền thống chính là tài nguyên du lịch nhân văn, nó đã góp phần tạo ra sự phong phú, đa dạng, có giá trị cho sản phẩm du lịch trên hai phương diện. Đó là, những điểm tham quan du lịch và các sản phẩm của làng nghề cũng chính là sản phẩm phục vụ khách du lịch. Tuy nhiên, phát triển du lịch làng nghề trong thời gian qua còn mang tính tự phát. Số làng nghề được chọn làm điểm du lịch còn hạn chế so với số lượng các làng nghề truyền thống hiện nay. Phần lớn các làng nghề được đầu tư về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, khả năng tổ chức, quản lý, vốn kiến thức thị trường và kỹ năng marketing ở địa phương đều thiếu và yếu. Bản thân các làng nghề thủ công truyền thống chưa thể tự điều tra, khảo sát nhu cầu khách du lịch, trong khi các tổ chức, hiệp hội làng nghề chưa khẳng định được vai trò của mình trong việc định hướng bảo tồn, phát triển du lịch làng nghề. Do vậy, để duy trì làng nghề, sản phẩm mang bản sắc văn hóa đích thực thì phải tạo môi trường tốt cho thợ thủ công, nghệ nhân sáng tạo và tôn vinh giá trị văn hóa nghề của họ… Để phát triển du lịch làng nghề, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành để thực hiện khâu tổ chức tiếp thị, hướng dẫn, phát triển du lịch làng nghề.
Hiện nay có hai mô hình làng nghề du lịch đang được đầu tư phát triển. Một là, phát huy làng nghề truyền thống trên cơ sở vốn có tồn tại từ xa xưa của địa phương. Hai là, các doanh nghiệp đầu tư xây dựng khu du lịch rồi đưa mô hình làng nghề vào đó rồi phục dựng không gian truyền thống để khai thác các giá trị sản phẩm văn hóa. Như vậy, các địa phương, tùy theo từng đặc điểm, quy hoạch của mỗi làng nghề mà lựa chọn mô hình phù hợp. Tuy nhiên, để phát triển bền vững du lịch làng nghề truyền thống, cần sự hỗ trợ đồng bộ của các cấp chính quyền, các ngành hữu quan, sự thống nhất trong các chủ trương, chính sách của Nhà nước và các giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch làng nghề trong hiện tại và tương lai của Việt Nam. Đây chính là hướng đi khai thác làng nghề truyền thống với phát triển du lịch cộng đồng bền vững.
Thay cho lời kết
Muốn gắn kết tốt hai lĩnh vực văn hóa và du lịch đòi hỏi những người làm du lịch phải được đào tạo trong một môi trường có sự gắn bó hữu cơ của văn hóa nghệ thuật, hiểu và cảm nhận được một cách sâu sắc những giá trị phi vật thể của nghệ thuật, nhận thức được sự khác nhau giữa việc tổ chức các sinh hoạt nghệ thuật với việc tổ chức biểu diễn đơn thuần, đi đến gắn nghệ thuật với du lịch theo tinh thần nâng hoạt động thưởng thức nghệ thuật lên một đẳng cấp văn hóa khác.
Song song với việc xây dựng chương trình đào tạo giao thoa, các trường cần có những hoạt động ngoại khóa, các chương trình liên kết mà ở đó trong mỗi sự kiện đều có sự tham gia của các sinh viên của ngành nghệ thuật cũng như ngành du lịch cùng thực hiện. Việc tiếp cận khai thác các giá trị nghệ thuật trong lĩnh vực du lịch là hướng đi tất yếu của các trường văn hóa nghệ thuật và du lịch trong tương lai. Việc biến các chương trình biểu diễn thành sản phẩm du lịch là quá trình tái đầu tư đối với văn hóa nghệ thuật.
ThS. Đoàn Mạnh Cương
Trường Saigontourist: Đào Tạo, Cung Ứng Nguồn Nhân Lực Du Lịch Trong & Ngoài Nước
1. Trường Saigontourist: “Dạy những gì người học cần, xã hội có nhu cầu”
Hàng năm, Trường Saigontourist tổ chức khai giảng Hệ trung cấp chính quy (2 năm) cho hơn 2.000 học viên, trong đó có các ngành nổi bật như: Hướng dẫn du lịch, Quản lý khách sạn, Quản lý nhà hàng, Kỹ thuật chế biến món ăn… Chương trình đào tạo được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, với thời lượng thực tập trên 60% giúp cho học viên nắm vững kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài hệ trung cấp chính quy, mỗi năm Trường Saigontourist còn mở các lớp nghiệp vụ ngắn hạn cũng như bồi dưỡng nâng cao thu hút hàng ngàn học viên như: Bếp Việt Nam căn bản, Bếp Âu căn bản, Bánh Âu… Sau hơn 27 năm thành lập, Trường Saigontourist đã đào tạo trên 50.000 học viên, đã và đang làm tốt vai trò quản lý ở các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài nước. Tỷ lệ tuyển sinh của Trường Saigontourist luôn tăng bình quân khoảng 16%/năm.
Trường Saigontourist có chiến lược liên kết hợp tác với các đơn vị đào tạo danh tiếng trong nước và quốc tế. Trường Saigontourist là điểm giao lưu văn hóa nghề nghiệp cho sinh viên và tình nguyện viên các nước khi đến TP. Hồ Chí Minh như: Canada, Đan Mạch, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… để lại ấn tượng đẹp về ngôi trường Du lịch Saigontourist trong lòng bạn bè thế giới.
Tháng 3 năm 2023, Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn có quyết định sáp nhập Khách sạn Đệ Nhất vào Trường Trung cấp Du lịch & Khách sạn Saigontourist, góp phần nâng cao năng lực đào tạo của Trường. Trường Saigontourist trở thành mô hình Trường – Khách sạn 4 sao đầu tiên tại Việt Nam chuyên đào tạo: Hướng dẫn Du lịch – Quản lý Khách sạn – Quản lý Nhà hàng – Kỹ thuật chế biến món ăn.
Khách sạn Đệ Nhất là Khách sạn quốc tế 4 sao, được Tổng Cục Du lịch Việt Nam – Hiệp Hội Du lịch Việt Nam bình chọn là một trong 10 khách sạn hàng đầu Việt Nam (liên tục từ năm 1999 đến 2014).
3. Tại sao Trường Saigontourist thu hút hàng ngàn học viên mỗi năm?
Là trường thuộc doanh nghiệp: Trường Saigontourist là đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (Saigontourist). Saigontourist là doanh nghiệp xếp hạng đặc biệt: đầu tư và quản lý hàng trăm khách sạn, nhà hàng, khu du lịch, công ty lữ hành… với lực lượng lao động trên 17.000 người làm việc từ Bắc đến Nam. Hằng năm, hơn 90% sinh viên của Trường Saigontourist tốt nghiệp và được các doanh nghiệp trong và ngoài hệ thống Saigontourist tuyển dụng.
Mô hình Trường – Khách sạn đầu tiên tại Việt Nam: tạo được môi trường chuyên nghiệp và đẳng cấp cho sinh viên thực hành và trải nghiệm thực tế. Mô hình thực nghiệp, chú trọng thực hành: Chương trình đào tạo được xây dựng theo chuẩn quốc tế, thời lượng thực hành chiếm hơn 60% chương trình học…
Đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm, được đào tạo chuyên sâu ở nước ngoài.
Cơ hội việc làm cao trong và sau khi tốt nghiệp.
Bạn đã sẵn sàng trở thành thế hệ sinh viên tiếp theo của Trường Trung Cấp Du Lịch & Khách Sạn Saigontourist?
Trường Trung Cấp Du Lịch & Khách Sạn Saigontourist
Địa chỉ: 23/8 Hoàng Việt, Phường 4, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028 3844 2238
Thương Mại Nghệ An Đón Đầu Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao
Cơ sở Trường Cao đằng Du lịch – Thương mại Nghệ An tại Vinh. Ảnh:P.V
Trường Cao đẳng Du lịch – Thương mại Nghệ An là 1 trong 40 trường trọng điểm của cả nước được đầu tư thành trường chất lượng cao đến năm 2023 theo Quyết định số 761/QĐ – TTg ngày 23/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ; cũng là 1 trong 25 trường trong toàn quốc được đào tạo nghề trọng điểm cấp độ quốc tế từ chương trình chuyển giao của Australia. Trường có 3 cơ sở đào tạo ở thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò. Ngoài ra, trường còn đào tạo tại 13 cơ sở liên kết trong tỉnh và ngoài tỉnh như Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trường đang đào tạo 8 nghề trình độ cao đẳng và 6 nghề trình độ trung cấp; cơ sở vật chất khang trang và hiện đại; đội ngũ giáo viên gần 100% có trình độ thạc sỹ trở lên.
Trường đào tạo các ngành nghề thuộc lĩnh vực du lịch như: Hướng dẫn du lịch, Quản trị nhà hàng, Quản trị khách sạn, Kỹ thuật chế biến món ăn, Quản trị lễ tân. Hiện nay, nhà trường mở rộng quy mô đào tạo với 3 cơ sở có đầy đủ trang thiết bị, cơ sở vật chất dạy học (1 cơ sở tại TP. Vinh; 2 cơ sở tại thị xã Cửa Lò), hàng năm nhà trường cung cấp một số lượng lớn học sinh, sinh viên ngành du lịch – khách sạn cho các nhà hàng khách sạn đóng trên địa bàn cũng như các khu du lịch, resort nổi tiếng trong nước như Bãi Lữ Resort, TX. Cửa Lò, Mũi Né, Vinpearl Nha Trang…
Với hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, hệ thống nhà thực hành được đầu tư các máy móc thiết bị nhập khẩu từ châu Âu, trong quá trình đào tạo nhà trường luôn tạo điều kiện cho học sinh sinh viên học tập kết hợp giữa lý thuyết và thực hành trong đó 30% lý thuyết, 70% thực hành. Đây là điều kiện giúp cho HSSV sau khi tốt nghiệp ra trường tìm kiếm việc làm thuận lợi hơn, dễ dàng bắt nhịp với công việc phù hợp chuyên ngành được đào tạo.Đặc biệt, hiện nay có 2 nghề Hướng dẫn du lịch và Quản trị nhà hàng được nhà trường đào tạo theo chương trình chuyển giao từ học viện Chisholm, bang Victoria, Úc.
Cơ sở Trường Cao đẳng du lịch – thương mại Nghệ An tại Thị xã Cửa Lò.
Trao đổi với cô Phạm Thị Hường – Trưởng khoa Du lịch và NV Khách sạn, được biết: Chương trình đào tạo cấp độ quốc tế chuyển giao từ Úc đối với nghề Quản trị nhà hàng và Hướng dẫn du lịch được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hợp đồng đào tạo thí điểm. Nghề Hướng dẫn du lịch có 4 trường được đặt hàng đào tạo đó là: Trường Cao đẳng Nghề Du lịch Huế; Trường Cao đẳng Nghề Du lịch – Dịch vụ Hải Phòng; Trường Cao đẳng Du lịch – Thương mại Nghệ An; Trường Cao đẳng nghề Vũng Tàu. Nghề Quản trị nhà hàng có 2 trường được đặt hàng đó là Trường Cao đẳng Du lịch – Thương mại Nghệ An và Trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu.
Để đáp ứng yêu cầu theo tiêu chuẩn đào tạo của Úc, hiện nay Trường Cao đẳng Du lịch – Thương mại Nghệ An có cơ sở vật chất trang thiết bị đảm bảo cho giảng dạy nghề Hướng dẫn du lịch và Quản trị nhà hàng đã được phía học viện Chisholm (Úc) sang kiểm định và đánh giá. Thời gian tới, trường tiếp tục đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất để nâng cao hơn chất lượng cơ sở vật chất nhằm đảm bảo việc giảng dạy lâu dài. Trước mắt, trường lựa chọn đào tạo 2 lớp thí điểm Quản trị nhà hàng và Hướng dẫn du lịch (mỗi lớp 25 học sinh, đã tốt nghiệp THPT) theo chương trình chuyển giao từ Úc để đào tạo và sau khi sinh viên tốt nghiệp được cấp 2 bằng cao đẳng của Việt Nam và của Úc. Những sinh viên này phải trải qua thời gian học 6 tháng để đạt trình độ tiếng Anh tối thiểu là B1 theo khung trình độ ngoại ngữ châu Âu (CEFR). Để đạt được chuẩn đầu vào tiếng Anh tối thiểu là B1, thì nhà trường đã ký hợp đồng với Công ty TNHH Thương mại và Phát triển giáo dục Việt Nam – Đơn vị được Tổng cục Dạy nghề giới thiệu để tổ chức đào tạo tập trung và thi tiếng Anh để lấy chứng chỉ B1.
Sinh viên Trường Cao đẳng Du lịch – Thương mại Nghệ An thực hành lễ tân. Ảnh: SM
Để đảm bảo đạt chuẩn tiếng Anh theo quy định, Nhà trường bố trí 2 giáo viên là trưởng và phó khoa du lịch làm giáo viên chủ nhiệm của 2 lớp Quản trị nhà hàng và Hướng dẫn du lịch. Toàn bộ sinh viên được kiểm tra tiếng Anh để chia nhỏ ra làm 6 nhóm trình độ khác nhau để đào tạo; bố trí giáo viên khoa ngoại ngữ kèm và dự giờ giảng dạy trên lớp để đảm bảo việc học của các em đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, nhà trường tổ chức cho toàn bộ sinh viên ở tập trung cùng một khu vực ở ký túc xá để quản lý giờ giấc học của các em ngoài giờ học chính ở lớp.
Nhà trường bố trí các giáo viên đạt chuẩn theo quy định của Úc để tham gia giảng dạy cho nghề. Ngoài ra, trường còn bố trí cho giáo viên đăng ký tham gia học tập tại Úc để đảm bảo các điều kiện giảng dạy theo quy định phía Úc. Cả hai nghề Quản trị nhà hàng và Hướng dẫn du lịch đều sử dụng bộ chương trình đã được chuyển giao từ Học viện Chisholm, Úc và được Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho phép sử dụng tại Quyết định số 1808/QĐ-LĐTBXH ngày 09/12/2023.
Các đối tác thăm quan Trường Cao đẳng du lịch – thương mại Nghệ An
Em Trần Thị Mai – sinh viên khóa đầu tiên ngành Hướng dẫn du lịch được đào tạo theo tiêu chuẩn Úc cho biết: “Sau khi tốt nghiệp, chúng em được cấp 2 bằng của Việt Nam và của Úc. Đây là cơ hội để chúng em có thể tiếp cận với các nước tiên tiến, đồng thời tìm được việc làm phù hợp với khả năng, năng lực sau khi đào tạo”.
Cũng theo cô Phạm Thị Hường – Trưởng khoa Du lịch và NV khách sạn, những sinh viên sau khi đào tạo được cấp 2 bằng tốt nghiệp (1 bằng tốt nghiệp của Việt Nam và 1 bằng tốt nghiệp do Học viện Chisholm (Úc) cấp). Sinh viên tốt nghiệp nếu đủ điều kiện và có nguyện vọng sẽ được liên thông lên đại học tại các trường đại học của Úc. Ngoài ra, sinh viên còn được giới thiệu việc làm tại các doanh nghiệp lớn trên cả nước, có cơ hội xuất khẩu lao động sang các nước khu vực ASEAN và thế giới.Thời gian tới, Trường tiếp tục hợp tác với Đức đào tạo thí điểm quốc tế 2 nghề: Kỹ thuật chế biến món ăn và Lễ tân khách sạn.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và UBND tỉnh Nghệ An cùng toàn thể xã hội, nhà trường đang chủ động đón đầu đào tạo nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành du lịch trong giai đoạn mới, góp phần thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Tháo Gỡ Khó Khăn Trong Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Lực Du Lịch
(Thanhuytphcm.vn) – Sáng 2/8, tại TPHCM đã diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế” do Trường Đại học (ĐH) Văn Hiến phối hợp với Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) tổ chức.
Tham dự có chúng tôi Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ VHTTDL; Giám đốc Sở Du lịch TPHCM Bùi Tá Hoàng Vũ; TS Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch; cùng đại diện Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch các tỉnh, thành và đông đảo các doanh nghiệp du lịch lữ hành; các chuyên gia, giảng viên trong và ngoài nước.
Theo số liệu từ Tổng cục Du lịch, mỗi năm toàn ngành cần thêm gần 40.000 lao động. Tuy nhiên, lượng sinh viên chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000 người/năm, trong đó chỉ hơn 12% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên…
Tại hội thảo, các chuyên gia cho rằng, phát triển nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang là thách thức cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch lữ hành cũng như hệ thống cơ sở đào tạo ngành học này.
Theo chúng tôi Trần Văn Thiện, Hiệu trưởng Trường ĐH Văn Hiến, trong những năm gần đây, ngành du lịch nước ta đã thu hút hàng chục triệu du khách nước ngoài, nhanh chóng nâng cao tỷ trọng thu nhập GDP của nền kinh tế quốc dân, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, ngành Du lịch Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn, thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó lớn nhất là vấn đề về xây dựng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhìn chung ngành du lịch vẫn trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển của ngành trong giai đoạn hội nhập toàn cầu.
PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ đào tạo, Bộ VHTTDL nhận định, mặc dù nguồn nhân lực du lịch được quan tâm và phát triển mạnh trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn có những bất cập, hạn chế, cần được quan tâm giải quyết. Đó là tình trạng mất cân đối trong cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực theo các vùng miền, địa phương; mất cân đối trong cơ cấu nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực, cấp độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực ngoại ngữ.
“Hiện nay, du lịch Việt Nam đang thiếu đội ngũ cán bộ cấp cao ở cả khối doanh nghiệp kinh doanh trực tiếp, khối quản lý nhà nước, các lĩnh vực quy hoạch, hoạch định chính sách chiến lược và khối sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu về du lịch. Thiếu hụt nhân lực quản trị cấp cao, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh khách sạn, khu resort… đang là vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Theo đó, tại hầu hết các doanh nghiệp, tập đoàn khách sạn lớn hoặc có yếu tố nước ngoài, đội ngũ quản lý cấp trung và cấp cao phần lớn là người nước ngoài”, chúng tôi Lê Anh Tuấn tâm tư.
Cũng tại hội thảo, các diễn giả cũng cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, với xu thế phát triển du lịch thông minh, công nghệ thực tế ảo, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng phổ biến trong lĩnh vực du lịch,… nhân lực du lịch cần phải được đào tạo và phát triển mạnh mẽ để đáp ứng với yêu cầu mới, song song đó, việc nghiên cứu để phát triển các ngành nghề và lĩnh vực mới thích ứng với du lịch thông minh thời 4.0 là vấn đề cấp bách hiện nay.
Mối Tương Quan Giữa Văn Hóa Và Du Lịch
Văn hóa là nền tảng cho du lịch khai thác, phát triển, nhưng văn hóa cũng phải dựa vào du lịch để quảng bá. Đó là mối tương quan cơ bản và chặt chẽ, không thể tách rời, nhưng việc sử dụng, khai thác hiệu quả mối tương quan này như thế nào là điều cần quan tâm, nhằm đạt tới mục đích chung là sự phát triển của xã hội.
Tấu chiêng trong Lễ cúng sức khỏe voi của dân tộc Êđê. Ảnh: Y KRăk
Hỗ trợ qua lại lẫn nhau
Mối quan hệ văn hóa – du lịch trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Trước hết là ảnh hưởng của văn hóa đối với du lịch. Nền văn hóa bản địa tạo nên tính độc đáo, đặc sắc, hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, từ đó góp phần đưa hình ảnh quốc gia/địa phương đến với thế giới bên ngoài một cách nhanh chóng, trực tiếp và sinh động. Về bản chất, du lịch là một hoạt động văn hóa cao cấp của con người.
Văn hóa tiềm ẩn đằng sau du lịch là nhu cầu nội sinh thôi thúc du khách lên đường và khám phá những vùng đất mới, văn hóa mới. Văn hóa là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch xét trên cả hai phương diện văn hóa vật thể (cảnh quan, di sản kiến trúc, di tích văn hóa – lịch sử, hàng thủ công mỹ nghệ, công cụ lao động, dụng cụ sinh hoạt, ẩm thực…) và văn hóa phi vật thể (lễ hội, nghệ thuật truyền thống, lối sống bản địa, phong tục tập quán địa phương, tín ngưỡng…).
Văn hóa là nền tảng cho việc phát triển du lịch bền vững, vì nó vừa là điểm nhấn thu hút du khách, vừa là cội rễ để bảo tồn bản sắc độc đáo trong sự giao lưu văn hóa đa dạng, tạo nên tính nhân văn cộng đồng. Văn hóa còn biểu hiện trong việc kinh doanh du lịch như hành vi ứng xử và cách thức kinh doanh giữa công ty lữ hành với du khách, giữa cư dân địa phương tham gia làm du lịch với du khách, giữa con người với môi trường du lịch, thậm chí còn trong cả mối quan hệ giữa người dân không tham gia làm du lịch với du khách.
Bên cạnh đó, du lịch cũng có tác động trở lại đối với văn hóa. Qua con đường du lịch, văn hóa bản địa được đưa đến với du khách qua những cách thức khác nhau: tham quan, khám phá, nghỉ ngơi, thưởng thức các loại hình nghệ thuật, giao lưu văn hóa… từ đó tăng cường sự đa dạng và hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, vùng miền. Sản phẩm du lịch đồng thời cũng là sản phẩm văn hóa vì du khách khi tới một vùng đất mới thì nhu cầu văn hóa tinh thần luôn đi đôi với nhu cầu văn hóa vật chất.
Du lịch góp phần phát huy khôi phục giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể như các công trình kiến trúc văn hóa cổ, các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống, các hoạt động sinh hoạt vật chất cổ xưa mang bản sắc địa phương. Du lịch cũng góp phần tích cực vào sự đa dạng của văn hóa, mang các nét văn hóa của du khách đến với nền văn hóa bản địa, du nhập những giá trị tốt đẹp từ các nền văn hóa bên ngoài và tôn vinh văn hóa bản địa trên phương diện vừa kế thừa vừa đổi mới.
Phát triển văn hóa du lịch trong bối cảnh toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa đặt ra cả thách thức và cơ hội mới cho các lĩnh vực, trong đó có du lịch, phát triển văn hóa du lịch bền vững. Theo các chuyên gia để văn hóa du lịch phát triển bền vững, phải bắt đầu từ du lịch bền vững. Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách và người bản địa, mang lại lợi ích công bằng cho các nhóm đối tượng tham gia, đồng thời quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo nguồn lực văn hóa – môi trường – xã hội cho phát triển du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững là du lịch giảm thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho môi trường tự nhiên và cộng đồng địa phương, được thực hiện lâu dài nhưng không ảnh hưởng xấu đến những nguồn lợi mà nó phụ thuộc vào.
Ba trụ cột chính cho sự phát triển du lịch bền vững: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Mạng lưới Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hợp Quốc (United Nation World Tourism Organization Network – UNWTO) chỉ ra rằng: Du lịch bền vững cần phải đáp ứng được ba tiêu chí: Về môi trường: sử dụng tốt nhất các tài nguyên môi trường trong phát triển du lịch, duy trì quá trình sinh thái thiết yếu và duy trì di sản thiên nhiên cũng như đa dạng sinh học tự nhiên.
Về xã hội và văn hóa: Tôn trọng tính chất xã hội và văn hóa của các cộng đồng địa phương, bảo tồn di sản văn hóa và các giá trị truyền thống đã được xây dựng và đang sống động, đóng góp vào sự hiểu biết và chia sẻ liên văn hóa. Về kinh tế: Bảo đảm sự hoạt động kinh tế lâu dài, cung cấp lợi ích tới tất cả những người hưởng lợi và được phân bổ công bằng, bao gồm cơ hội việc làm và cơ hội thu lợi nhuận ổn định và các dịch vụ xã hội cho các cộng đồng địa phương, đóng góp vào việc xóa đói, giảm nghèo tại địa phương.
Chúng ta tự hào là một điểm đến của những giá trị và vẻ đẹp văn hóa, nghệ thuật lâu đời, độc đáo được gìn giữ, trân trọng dù có trải qua nhiều năm tháng chiến tranh chống xâm lược. Không phải nước nào trên thế giới cũng giữ gìn trao truyền được qua các thế hệ những thể loại nghệ thuật diễn xướng truyền thống như ở Việt Nam và ngày nay được công nhận là những di sản văn hóa của nhân loại như: Nhã nhạc cung đình Huế, ca trù, quan họ, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh, đờn ca tài tử Nam Bộ, hát xoan, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng, tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam cùng các loại hình nghệ thuật cổ truyền: tuồng, chèo, rối nước, dân ca các vùng, miền…; các di sản văn hóa thế giới: cố đô Huế, đền tháp Mỹ Sơn, đô thị cổ Hội An, hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ và rất nhiều lễ hội truyền thống, làng nghề thủ công truyền thống.
Bên cạnh đó là những tài nguyên du lịch tự nhiên đã trở thành di sản thế giới như: Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, quần thể danh thắng Tràng An, các khu bảo tồn sinh thái và hệ thống hang động Sơn Đoòng, cao nguyên đá Hà Giang… Đấy chính là kho báu cần được trân trọng, tôn tạo, giữ gìn và phát triển để quảng bá tới bạn bè thế giới qua du lịch.
Thùy Dương (t.h)
Nguồn Lực Để Phát Triển Du Lịch Việt Nam
Huy động nguồn lực tài nguyên
Các hoạt động nghiên cứu, khảo sát, quy hoạch và phát triển tài nguyên du lịch thời gian qua đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay, nhiều di sản vật thể, phi vật thể được nghiên cứu, bảo tồn và được công nhận là di sản văn hóa các cấp từ Trung ương đến địa phương. Nhiều danh thắng, tài nguyên thiên nhiên được công nhận là khu bảo tồn và các vườn quốc gia, đang được quản lý và bảo vệ trên khắp cả nước. Gần 20 di sản thiên nhiên và văn hóa đã được tổ chức UNESCO công nhận và vinh danh, có những giá trị tài nguyên đã được phát hiện tại Việt Nam có giá trị đặc biệt, duy nhất trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, ngành Du lịch đã triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch của Việt Nam các giai đoạn 1995 đến 2000, giai đoạn 2001 đến 2010, và quy hoạch tổng thể đến năm 2023 tầm nhìn đến năm 2030, trên cơ sở đó, ngành Du lịch đã triển khai xây dựng quy hoạch phát triển du lịch theo đặc điểm tài nguyên của từng vùng.
Ngoài ra, phương thức xã hội hóa trong huy động các nguồn lực tài chính đã được triển khai trong giai đoạn vừa qua; các doanh nghiệp đã chủ động tham gia đầu tư quy hoạch, phát triển tài nguyên, sản phẩm du lịch của ngành và địa phương, như trường hợp tỉnh Ninh Bình đã triển khai rất tốt phương thức này.
Huy động nguồn lực khoa học công nghệ
Trong lĩnh vực du lịch, việc sử dụng công nghệ xanh – sạch phục vụ phát triển bền vững bắt đầu được sử dụng phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Mô hình khách sạn xanh đang và sẽ mở rộng trên phạm vi khắp cả nước. Việc sử dụng công nghệ thông tin trong phát triển du lịch, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin trong marketing, xúc tiến quảng bá du lịch được sử dụng phổ biến thông qua các trang thông tin điện tử, các ấn phẩm thông tin du lịch. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng e-marketing để tổ chức kinh doanh và hình thức này đang triển khai rộng rãi ở Việt Nam.
Huy động nguồn lực con người
Nguồn nhân lực Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn cơ cấu nguồn nhân lực, tính chuyên nghiệp được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển ngành. Du lịch Việt Nam đã được thụ hưởng các nguồn lực từ nhiều quốc gia trên thế giới thông qua những nguồn vốn viện trợ phát triển cho việc đào tạo nhân lực chất lượng cao như Nhật Bản, Australia…, đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực như các Dự án Luxembourg, Dự án EU – ESRT, Dự án của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…
Huy động các nguồn lực mềm
Với chính sách ngoại giao rộng mở, Việt Nam tăng cường quan hệ ngoại giao song và đa phương, thông qua đó để phát triển kinh tế văn hóa. Việt Nam cũng thực hiện và tăng cường thực hiện các hoạt động ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, góp phần không nhỏ cho phát triển ngành Du lịch.
Ngành Du lịch Việt Nam, cũng như các địa phương đã coi trọng việc hợp tác liên kết quốc tế trong phát triển du lịch, đã tham gia Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp quốc vào năm 1981, đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế trên thế giới về du lịch như: Hiệp hội Du lịch châu Á – Thái Bình Dương (PATA), Hiệp hội Du lịch các nước Đông Nam Á (ASEANTA) và các tổ chức khác như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM).
Theo Tổng cục Du lịch, Việt Nam đã ký các hiệp định hợp tác, liên kết song phương với khoảng 43 quốc gia và có quan hệ hợp tác du lịch với các nước như Bỉ, Luxemburg, New Zealand…; hợp tác đa phương với các quốc gia ASEAN, ký thỏa thuận nghề chung ASEAN (MRA). Các địa phương cũng đã chủ động trong việc hợp tác với các địa phương của các nước trên thế giới.
Ở cấp độ doanh nghiệp, đơn vị, nhiều hãng lữ hành quốc tế và các khách sạn lớn của Việt Nam đã tham gia và là thành viên của các hiệp hội du lịch của các quốc gia như: Hiệp hội Lữ hành Nhật Bản (JATA), Hiệp hội Lữ hành của Hoa Kỳ (ASTA)… Ngoài ra, các doanh nghiệp du lịch, các cơ sở đào tạo du lịch Việt Nam cũng đã chủ động có những hoạt động hợp tác mang tính riêng biệt, ký kết các hợp đồng hoặc thỏa thuận với các đối tác là doanh nghiệp, hoặc các địa phương, các cơ sở đào tạo du lịch nước bạn, như Vietravel đã ký thỏa thuận hợp tác với tỉnh Aichi của Nhật Bản, hợp tác giữa Trường Cao đẳng nghề Du lịch Huế với đối tác vùng Poitou Charentes – Pháp, hợp tác giữa Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội với các đối tác Luxembourg, Hungary, Đài Loan… Các doanh nghiệp du lịch chủ động thu hút các nguồn lực vốn và kinh nghiệm theo phương thức liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài hoặc thực hiện phương thức nhượng quyền thương hiệu để triển khai tổ chức kinh doanh. Bước đầu, nhiều hoạt động liên doanh, liên kết và nhượng quyền thương hiệu đã thu được hiệu quả nhất định.
Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình phát triển du lịch theo hướng bền vững ngày càng được mở rộng, vai trò của cộng đồng đã và đang được đánh cao thông qua các quan điểm lấy cộng đồng làm nòng cốt, đóng vai trò chính trong việc phát triển du lịch trong đó có loại hình du lịch dựa vào cộng đồng, du lịch có trách nhiệm.
Tuy nhiên, thực tiễn huy động các nguồn lực phát triển ngành Du lịch trong thời gian qua vẫn còn nhiều vấn đề trăn trở, chẳng hạn như: chưa phát huy được phương thức xã hội hóa trong thu hút các nguồn lực; sử dụng và khai thác các nguồn lực khoa học công nghệ còn hạn chế; các nguồn lực mềm chưa được khai thác một cách hiệu quả…
Trong thời gian tới, ngành Du lịch Việt Nam cần có những cải thiện để có thể phát triển du lịch đúng hướng và đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đưa Việt Nam trở thành một điểm du lịch phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các ngành, các chủ thể và các đối tượng trong và ngoài nước, đặc biệt là trong nước; sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bổ sung hỗ trợ các kinh nghiệm, phát huy nội lực, thu hút các nguồn lực bên ngoài đặc biệt là kinh nghiệm quản lý, kinh doanh du lịch; quản trị rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Tăng cường vai trò của cộng đồng, các lực lượng trong xã hội trong khai thác và phát triển các nguồn lực để phát triển du lịch. Tạo cơ chế để khai thác và phát huy sức mạnh của các lực lượng trong xã hội để thúc đẩy nhanh và mạnh vấn đề xã hội hóa trong huy động các nguồn lực để phát triển du lịch.
Tăng cường phát huy nguồn lực mềm như các mối quan hệ kinh tế quốc tế, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, sức mạnh của nền văn hóa dân tộc, sự ổn định chính trị và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế…
Nâng cao nhận thức của người dân, tăng cường năng lực của đội ngũ, nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là năng lực ngoại ngữ, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và nghiệp vụ du lịch.
Tài liệu tham khảo
1. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn 2030.2. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, 10/20103. Thống kê của Bộ Ngoại giao Việt Nam, www.mofa.gov.vn4. Thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, www.vietnamtourism.gov.vn
PGS.TS. Lê Anh Tuấn
(Tạp chí Du lịch)
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Hóa Du Lịch Mối Quan Hệ Trong Việc Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Việt Nam trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!