Xu Hướng 3/2023 # Văn Hóa Du Lịch Mối Quan Hệ Trong Việc Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Việt Nam # Top 3 View | Tuyensinhtdnceovn.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Văn Hóa Du Lịch Mối Quan Hệ Trong Việc Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Việt Nam # Top 3 View

Bạn đang xem bài viết Văn Hóa Du Lịch Mối Quan Hệ Trong Việc Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

18 Tháng Giêng 2017          9033 lượt xem

Đặt vấn đề

Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Khi xác định hướng đi “văn hóa gắn với du lịch”, người làm du lịch phải có một trình độ nhất định, được đào tạo bài bản về văn hóa nghệ thuật, để có thể tạo được những hiệu ứng từ các hoạt động biểu diễn, lưu lại được những giá trị và ấn tượng văn hóa trong lòng du khách, chứ không chỉ khai thác ánh sáng, âm thanh, mầu sắc đơn thuần…

Như là một biểu thị của nhu cầu mang “tính người”, du lịch dưới bất cứ hình thức nào cũng hướng tới việc tiếp xúc, giao lưu, học hỏi và mở mang về văn hóa. Trong bối cảnh ngành du lịch ở Việt Nam đang trên đà phát triển, song vẫn tồn tại một số bất cập, thì lĩnh vực này cũng cần được xem xét từ góc nhìn  văn hóa. Khi xác định du lịch như hành vi thỏa mãn văn hóa, cũng tức là cần xác lập các tiêu chí để làm nên một “văn hóa du lịch”. Thiết nghĩ, văn hóa du lịch được thể hiện trên hai phương diện: một là văn hóa của du lịch và hành vi văn hóa của người làm du lịch. Văn hóa của du lịch là dấu ấn riêng, độc đáo, tạo nên bản sắc của văn hóa mỗi cộng đồng. Ðó là yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn đối với du khách.

            Mối quan hệ văn hóa và du lịch ?

            Trong những năm gần đây có một vài nhận xét cho rằng, văn hóa và du lịch đã có sự gắn kết, tuy nhiên đó mới chỉ là mang tính tự phát, nên chưa thực sự phát huy hiệu quả. Du lịch và văn hóa cần nhìn về một hướng. Nguyên nhân của hiện trạng này thuộc về cả hai phía. Hầu hết các đơn vị văn hóa chưa xây dựng chương trình biểu diễn trở thành sản phẩm du lịch, hay nói cách khác chưa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch. Các công ty lữ hành hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch nhưng chưa thực sự nhập cuộc, không chủ động giới thiệu với khách những sản phẩm văn hóa của dân tộc. Một lý do nữa là kinh phí và nhân lực của các hoạt động biểu diễn đa phần được hoạch định một cách cảm tính, nhiều thay đổi, không theo xu hướng kinh tế thị trường mang mầu sắc thực sự là sản phẩm du lịch, mà theo xu hướng làm nghệ thuật, gây nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chuyên nghiệp.

            Nói mối quan hệ văn hóa và du lịch, người ta thường nghĩ đến những lễ hội. Những lễ hội cũng là một phần quan trọng của đời sống văn hóa, có hàm chứa yếu tố nghệ thuật. Nhưng không phải cứ có biểu diễn nghệ thuật là trở thành lễ hội, mặt khác những lễ hội được tổ chức phần nào sơ sài, dàn trải bốn mùa trong năm, ở hầu như tất cả các địa phương trên cả nước, đã bắt đầu cho thấy sự nhàm chán và lặp lại nhau, chưa nói đến sự phản cảm khi khâu tổ chức  làm sơ sài, đơn điệu. Phần lớn các chương trình khai trương lễ hội du lịch hiện nay mang tính chất “sân khấu hóa” và có xu hướng lễ hội hóa ở tất cả các địa phương có một kịch bản na ná giống nhau… Ở một góc nhìn khác, tình trạng mô phỏng, manh mún, thiếu sáng tạo trong xây dựng văn hóa của du lịch còn được bổ sung bởi hành vi thiếu “tính văn hóa” của một số người làm du lịch, trong một số trường hợp họ đã làm thất vọng du khách. Thái độ thiếu niềm nở, hay miễn cưỡng niềm nở khi đón tiếp du khách là hình ảnh còn gặp mỗi khi tới các điểm du lịch.

            Thổi hồn văn hóa vào du lịch…

Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục… gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ.

Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.

Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số nước thuộc khu vực Nam Mỹ….

            Hầu hết các quốc gia thường khai thác các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, lễ hội, thể thao, giải trí… để phát triển du lịch. Sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa nghệ thuật và du lịch đã làm cho những sự kiện văn hóa, nghệ thuật trở thành một thương hiệu của một lễ hội vượt ra khỏi tầm địa phương, quốc gia mà còn là mang một giá trị của thế giới.

Trong những năm qua, Việt Nam đã tổ chức rất thành công những sự kiện lớn gây được sự chú ý đến các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Có thể kể đến như Festival nghệ thuật Huế, Festival biển Nha Trang, Carnavan biển Hạ Long, Festival cồng chiêng Tây Nguyên, Hành trình Di sản miền Trung… Những lễ hội trên đã trở thành “hiệu ứng văn hóa” không chỉ còn của địa phương mà là sự hòa quyện, giao thoa của văn hóa Việt Nam với các đoàn nghệ thuật trên thế giới cùng tham gia để lại trong lòng du khách bốn phương.

Việt Nam, ngoài những tiềm năng du lịch đã được khai thác như cảnh quan thiên nhiên, nghỉ dưỡng, ẩm thực, chữa bệnh… còn một tiềm năng ở tầm sâu hơn, nhưng hứa hẹn một khả năng phát triển phong phú bội phần, đó là tiềm năng văn hóa nghệ thuật. Gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần của người Việt, với non nước hữu tình của dân tộc Việt, những hình thái nghệ thuật đã trở thành một phần không thể thiếu, có thể xem như linh hồn của người Việt. Nhưng bao nhiêu năm qua, chúng ta chỉ quan tâm khai thác du lịch bằng cái thế giới bên ngoài, cái thế giới vật chất hữu hình, với những ưu đãi của thiên nhiên, mà ít quan tâm đến việc giới thiệu đời sống tinh thần của dân tộc. Nếu những giá trị ấy được giới thiệu một cách chiến lược, có phong cách, có định hướng thì du lịch Việt Nam mới có thể có được cái bản sắc độc đáo riêng, không hề lặp lại bất kỳ ai khác trong thế giới du lịch đang ngày một phát triển phong phú và đa dạng hiện nay. Hãy làm khơi dậy và khai thác những di tích lịch sử, những truyền thuyết, những giá trị văn hóa nghệ thuật trở thành những sản phẩm du lịch, chương trình du lịch độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

Câu chuyện khai thác giá trị văn hoá làng nghề truyền thống trong việc phát triển du lịch cộng đồng

            Trong những năm qua, ngành du lịch đã có những bước phát triển đáng kể khi nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng các khu du lịch lớn nhằm khai thác lợi thế về cảnh quan, lịch sử, văn hóa, con người để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các nhà đầu tư đang chuyển dần sang xây dựng các điểm du lịch mới mang tính tiên tiến, hiện đại. Trong khi đó, du lịch lễ hội văn hóa, làng nghề truyền thống là một thế mạnh và nét đặc trưng vốn có của du lịch Việt Nam. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với khách du lịch quốc tế khi đến tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Việc khai thác và phát huy các làng nghề truyền thống như một chiến lược phát triển bền vững gắn với cộng đồng dân cư địa phương. Đồng thời giữ gìn những nét bản sắc văn hóa của các địa phương đã đi vào tiềm thức của quốc gia, của dân tộc.

Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với các thôn xóm và các làng nghề, đó là những đặc trưng cơ bản trong truyền thống kinh tế, văn hóa của xã hội nông thôn Việt Nam. Hiện đại hóa công nghệ truyền thống và truyền thống hóa công nghệ hiện đại là một nội dung của chiến lược công nghiệp hóa ở Việt Nam. Các làng nghề sẽ là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại và là nấc thang phát triển quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa nông thôn nước ta. Chúng đã góp phần đáng kể đối với sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đặc biệt hơn cả là đối với vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động.

            Làng nghề du lịch là một không gian lãnh thổ nông thôn, ở đó người dân không những tổ chức sản xuất một hoặc một số sản phẩm thủ công truyền thống mà còn cung cấp các dịch vụ phục vụ và thu hút khách du lịch. Phát triển du lịch làng nghề được coi là một hướng đi rất quan trọng để gìn giữ, giới thiệu, bảo tồn và tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc, của quốc gia. Phát triển mô hình du lịch làng nghề còn có tác dụng hỗ trợ đắc lực cho khu vực nông thôn chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững trong tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, ở mỗi làng nghề du lịch là sự kết hợp với tìm hiểu văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán của bản thân làng nghề đó, để có thể tìm ra những nét độc đáo, gây ấn tượng cho du khách. Nếu trong một chương trình du lịch đúng dịp làng nghề tổ chức các lễ hội tôn vinh tổ nghề thì đó sẽ là dịp may hiếm có cho du khách và không thể bỏ qua. Các công ty du lịch cần tận dụng tốt những cơ hội như vậy để sắp xếp chương trình và thực hiện đan xen vào những điểm du lịch khác.

            Du lịch làng nghề không chỉ đơn thuần là đến xem các nghệ nhân làng nghề làm ra sản phẩm, hay đến mua sắm, tham quan làng nghề mà khách du lịch còn mong muốn được tìm hiểu những giá trị nhân văn trong nó, những giá trị phi vật thể tồn tại hàng ngàn năm. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu khách du lịch thì nên tổ chức, khôi phục lại các lễ hội làng nghề để thấy được xuất xứ làng nghề, ông tổ đã sinh ra nghề… và thấy được nét đẹp trong nghề đó. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi khai thác các làng nghề hoặc lễ hội truyền thống làm sản phẩm kinh doanh du lịch là họ sử dụng hình thức “3 cùng” gần giống với mô hình “homestay”. Đó là khách du lịch “ăn cùng, ở cùng và làm cùng” với những người dân bản địa của một làng nghề truyền thống nào đó. Với hình thức này, việc kéo khách du lịch cùng hòa vào cuộc sống của người dân bản địa sẽ làm cho thời gian của một chương trình du lịch được dài hơn. Đồng thời sự hứng thú đối với khách du lịch sẽ được tăng lên khi chính họ tận hưởng thành quả do chính bàn tay mình làm ra dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân làng nghề.

Một điều dễ nhận thấy là khách du lịch quốc tế đi du lịch Việt Nam thường rất thích tìm hiểu phong tục, tập quán, lối sống của con người Việt Nam, chính vì thế, những chương trình du lịch làng nghề sẽ là cách hay nhất để giới thiệu với bạn bè quốc tế về một Việt Nam đang cố gắng gìn giữ những di sản cha ông để lại và phát huy, sáng tạo nó. Khách đến tham quan làng nghề sẽ được tận mắt chứng kiến những tinh hoa mà cha ông ta để lại và được biết nhiều hơn về văn hóa, lối sống Việt Nam.

Trong các hoạt động của du lịch có tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ ngơi và mua sắm thì việc đến thăm các làng nghề truyền thống luôn giữ một vị trí quan trọng trong chương trình du lịch, là điểm đến thú vị để du khách trong và ngoài nước có cơ hội tham quan, tìm hiểu nghề, mua sắm đồ dùng, mua hàng lưu niệm. Để đáp ứng nhu cầu của du khách, thách thức mới đặt ra đối với các nhà quản lý ngành và các cấp chính quyền địa phương là phải tạo ra sản phẩm làng nghề hấp dẫn, độc đáo mang nét đặc thù riêng nhằm thu hút ngày càng đông các đoàn khách đến địa phương mình đồng thời tạo cơ hội bán hàng tại chỗ tạo thêm công ăn việc làm cho người dân sở tại nhờ dịch vụ du lịch, góp phần tăng nguồn thu cho người dân, tăng ngân sách cho địa phương và xã hội. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng của các cấp chính quyền ở các địa phương, nhưng nhiều năm qua mới chỉ có một số làng nghề được khai thác đưa vào các chương trình du lịch của một số doanh nghiệp lữ hành. Hơn nữa, việc khai thác này cũng còn rất khiêm tốn chưa được tổ chức một cách quy mô lớn, có hệ thống và chủ yếu mang tính tự phát từ phía các doanh nghiệp lữ hành do nhu cầu đa dạng sản phẩm du lịch cho khách trong chương trình du lịch.

            Việt Nam có tiềm năng rất to lớn về làng nghề, sản xuất làng nghề và du lịch làng nghề. Đặc biệt, có những làng nghề, phố nghề tồn tại đến cả nghìn năm tuổi. Truyền thống lịch sử về phát triển làng nghề lâu đời, làng nghề truyền thống của là nguồn “tài sản” quý giá của dân tộc ta, đất nước ta. “Tài sản” đó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế – xã hội mà còn thể hiện nền văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Sự phát triển của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống hiện nay là một xu hướng tất yếu khách quan. Dưới góc độ của du lịch, làng nghề truyền thống chính là tài nguyên du lịch nhân văn, nó đã góp phần tạo ra sự phong phú, đa dạng, có giá trị cho sản phẩm du lịch trên hai phương diện. Đó là, những điểm tham quan du lịch và các sản phẩm của làng nghề cũng chính là sản phẩm phục vụ khách du lịch. Tuy nhiên, phát triển du lịch làng nghề trong thời gian qua còn mang tính tự phát. Số làng nghề được chọn làm điểm du lịch còn hạn chế so với số lượng các làng nghề truyền thống hiện nay. Phần lớn các làng nghề được đầu tư về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, khả năng tổ chức, quản lý, vốn kiến thức thị trường và kỹ năng marketing ở địa phương đều thiếu và yếu. Bản thân các làng nghề thủ công truyền thống chưa thể tự điều tra, khảo sát nhu cầu khách du lịch, trong khi các tổ chức, hiệp hội làng nghề chưa khẳng định được vai trò của mình trong việc định hướng bảo tồn, phát triển du lịch làng nghề. Do vậy, để duy trì làng nghề, sản phẩm mang bản sắc văn hóa đích thực thì phải tạo môi trường tốt cho thợ thủ công, nghệ nhân sáng tạo và tôn vinh giá trị văn hóa nghề của họ… Để phát triển du lịch làng nghề, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành để thực hiện khâu tổ chức tiếp thị, hướng dẫn, phát triển du lịch làng nghề.

            Hiện nay có hai mô hình làng nghề du lịch đang được đầu tư phát triển. Một là, phát huy làng nghề truyền thống trên cơ sở vốn có tồn tại từ xa xưa của địa phương. Hai là, các doanh nghiệp đầu tư xây dựng khu du lịch rồi đưa mô hình làng nghề vào đó rồi phục dựng không gian truyền thống để khai thác các giá trị sản phẩm văn hóa. Như vậy, các địa phương, tùy theo từng đặc điểm, quy hoạch của mỗi làng nghề mà lựa chọn mô hình phù hợp. Tuy nhiên, để phát triển bền vững du lịch làng nghề truyền thống, cần sự hỗ trợ đồng bộ của các cấp chính quyền, các ngành hữu quan, sự thống nhất trong các chủ trương, chính sách của Nhà nước và các giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch làng nghề trong hiện tại và tương lai của Việt Nam. Đây chính là hướng đi khai thác làng nghề truyền thống với phát triển du lịch cộng đồng bền vững.

            Thay cho lời kết

            Muốn gắn kết tốt hai lĩnh vực văn hóa và du lịch đòi hỏi những người làm du lịch phải được đào tạo trong một môi trường có sự gắn bó hữu cơ của văn hóa nghệ thuật, hiểu và cảm nhận được một cách sâu sắc những giá trị phi vật thể của nghệ thuật, nhận thức được sự khác nhau giữa việc tổ chức các sinh hoạt nghệ thuật với việc tổ chức biểu diễn đơn thuần, đi đến gắn nghệ thuật với du lịch theo tinh thần nâng hoạt động thưởng thức nghệ thuật lên một đẳng cấp văn hóa khác.

            Song song với việc xây dựng chương trình đào tạo giao thoa, các trường cần có những hoạt động ngoại khóa, các chương trình liên kết mà ở đó trong mỗi sự kiện đều có sự tham gia của các sinh viên của ngành nghệ thuật cũng như ngành du lịch cùng thực hiện. Việc tiếp cận khai thác các giá trị nghệ thuật trong lĩnh vực du lịch là hướng đi tất yếu của các trường văn hóa nghệ thuật và du lịch trong tương lai. Việc biến các chương trình biểu diễn thành sản phẩm du lịch là quá trình tái đầu tư đối với văn hóa nghệ thuật.

ThS. Đoàn Mạnh Cương

Tháo Gỡ Khó Khăn Trong Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Lực Du Lịch

(Thanhuytphcm.vn) – Sáng 2/8, tại TPHCM đã diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế” do Trường Đại học (ĐH) Văn Hiến phối hợp với Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) tổ chức.

Tham dự có chúng tôi Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ VHTTDL; Giám đốc Sở Du lịch TPHCM Bùi Tá Hoàng Vũ; TS Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch; cùng đại diện Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch các tỉnh, thành và đông đảo các doanh nghiệp du lịch lữ hành; các chuyên gia, giảng viên trong và ngoài nước.

Theo số liệu từ Tổng cục Du lịch, mỗi năm toàn ngành cần thêm gần 40.000 lao động. Tuy nhiên, lượng sinh viên chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000 người/năm, trong đó chỉ hơn 12% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên…

Tại hội thảo, các chuyên gia cho rằng, phát triển nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang là thách thức cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch lữ hành cũng như hệ thống cơ sở đào tạo ngành học này.

Theo chúng tôi Trần Văn Thiện, Hiệu trưởng Trường ĐH Văn Hiến, trong những năm gần đây, ngành du lịch nước ta đã thu hút hàng chục triệu du khách nước ngoài, nhanh chóng nâng cao tỷ trọng thu nhập GDP của nền kinh tế quốc dân, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, ngành Du lịch Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn, thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó lớn nhất là vấn đề về xây dựng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhìn chung ngành du lịch vẫn trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển của ngành trong giai đoạn hội nhập toàn cầu.

PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ đào tạo, Bộ VHTTDL nhận định, mặc dù nguồn nhân lực du lịch được quan tâm và phát triển mạnh trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn có những bất cập, hạn chế, cần được quan tâm giải quyết. Đó là tình trạng mất cân đối trong cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực theo các vùng miền, địa phương; mất cân đối trong cơ cấu nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực, cấp độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực ngoại ngữ.

“Hiện nay, du lịch Việt Nam đang thiếu đội ngũ cán bộ cấp cao ở cả khối doanh nghiệp kinh doanh trực tiếp, khối quản lý nhà nước, các lĩnh vực quy hoạch, hoạch định chính sách chiến lược và khối sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu về du lịch. Thiếu hụt nhân lực quản trị cấp cao, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh khách sạn, khu resort… đang là vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Theo đó, tại hầu hết các doanh nghiệp, tập đoàn khách sạn lớn hoặc có yếu tố nước ngoài, đội ngũ quản lý cấp trung và cấp cao phần lớn là người nước ngoài”, chúng tôi Lê Anh Tuấn tâm tư.

Cũng tại hội thảo, các diễn giả cũng cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, với xu thế phát triển du lịch thông minh, công nghệ thực tế ảo, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng phổ biến trong lĩnh vực du lịch,… nhân lực du lịch cần phải được đào tạo và phát triển mạnh mẽ để đáp ứng với yêu cầu mới, song song đó, việc nghiên cứu để phát triển các ngành nghề và lĩnh vực mới thích ứng với du lịch thông minh thời 4.0 là vấn đề cấp bách hiện nay.

Phát Triển Nguồn Nhân Lực Du Lịch Tại Quảng Bình

Thực trạng nguồn nhân lực du lịch Quảng Bình

Trong những năm qua, Sở Du lịch Quảng Bình đã tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên phục vụ các cơ sở lưu trú, nhà hàng, khu điểm du lịch, hướng dẫn viên du lịch; nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương và đã đạt được những kết quả khả quan. Hiện nay, toàn tỉnh có nhiều cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch, trong đó, Đại học Quảng Bình và Trường Trung cấp Du lịch Quảng Bình là hai cơ sở đào tạo phần lớn nguồn nhân lực cho ngành Du lịch của toàn tỉnh.

Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của ngành Du lịch, nguồn nhân lực hiện có đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, nhất là việc đào tạo nhân lực du lịch chất lượng cao một cách đồng bộ và hiệu quả. Khả năng đáp ứng nguồn nhân lực địa phương chưa bảo đảm, các cơ sở đào tạo địa phương chưa thể cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, buộc ngành Du lịch Quảng Bình cần liên kết với các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp ở các thành phố lớn khác, nơi có nhiều năm kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Đội ngũ nhân lực du lịch Quảng Bình có chuyên môn, tay nghề cao còn thiếu; tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên ngành Du lịch còn thấp.

Chất lượng đội ngũ lao động du lịch ở một số nơi trong tỉnh Quảng Bình còn thấp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc. Các ngành, địa phương mới chỉ quan tâm đến đào tạo, nâng cao chất lượng lao động trực tiếp, trong khi đó việc đào tạo lao động gián tiếp còn bỏ ngỏ. Tình trạng “nhảy việc” của nhân viên lành nghề giữa các cơ sở du lịch trong tỉnh, giữa tỉnh ta và tỉnh bạn cũng gây khó khăn cho việc phát triển ổn định của doanh nghiệp…

Nguyên nhân là do những người có trình độ, được đào tạo bài bản sau khi tốt nghiệp đã ở lại làm việc tại các thành phố lớn hoặc những nơi có du lịch phát triển và môi trường công tác tốt hơn. Số lao động trở về làm việc tại quê hương thường có trình độ ở mức trung bình và khi được tuyển chọn để làm việc tại các doanh nghiệp du lịch lại phải mất công đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ đầu.

Bên cạnh đó, tâm lý tự ti của người lao động ít nhiều còn chịu sự phân biệt của xã hội đối với những người làm việc trong khách sạn là một nghề “ít lành mạnh” cũng là một rào cản; ngoài ra một số nhà hàng, khách sạn, doanh nghiệp du lịch đánh giá chưa đúng mức sự đóng góp của đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên phục vụ dẫn đến việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chế độ lương, thưởng và các quyền lợi khác của người lao động chưa được quan tâm đúng mức, khiến đội ngũ này làm việc với năng suất và chất lượng chưa cao, thiếu nhiệt huyết và thường không ổn định.

Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực du lịch Quảng Bình

Trong bối cảnh khách du lịch trong nước và quốc tế đến với Quảng Bình ngày càng đông, nghỉ dưỡng dài ngày, ngoài việc đầu tư phát triển hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các loại hình và sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao để thu hút khách thì việc đào tạo, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch là nhân tố có ý nghĩa hàng đầu. Vì vậy, Quảng Bình cần tập trung làm tốt các biện pháp sau:

Một là, tăng cường các hoạt động tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức mỗi người dân về đặc điểm của ngành nghề du lịch, nhấn mạnh các ưu thế (có cơ hội giao tiếp rộng, tiếp cận được văn hóa của nhiều nước, công việc không đơn điệu…); chỉ rõ những khó khăn, thử thách của nghề nghiệp (làm việc vào các ngày, giờ nghỉ, cường độ làm việc…); đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng và các ngành, các cấp về vai trò vị trí du lịch trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh để mọi người cùng hưởng ứng và tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động du lịch tại địa phương.

Hai là, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần tổ chức rà soát, khảo sát điều tra chất lượng nguồn nhân lực du lịch của tỉnh để làm cơ sở cho việc thống kê, xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nhân lực du lịch dài hạn, theo lộ trình từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của ngành, trong đó cần ưu tiên bồi dưỡng các kỹ năng về chuyên môn, văn hóa ứng xử và ngoại ngữ.

Mặt khác, cần chú trọng đổi mới hơn nữa nội dung giáo trình giảng dạy, phương thức đào tạo phù hợp với đối tượng và nhu cầu hiện tại; liên kết với các trường, mời giảng viên có uy tín chuyên ngành du lịch truyền đạt, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong hoạt động du lịch để các học viên dễ tiếp cận và tiếp thu tốt hơn.

Ba là, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao chuyên môn cho nguồn nhân lực du lịch; tăng cường đầu tư và huy động mọi nguồn lực tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn để nâng cao nhận thức về phát triển du lịch bền vững, du lịch có trách nhiệm, khả năng ngoại ngữ, trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước, các cơ sở kinh doanh du lịch và cộng đồng dân cư; cử cán bộ, chuyên viên tham gia các khóa học về quản lý du lịch trong và ngoài nước; tổ chức th­ường xuyên các lớp bồi dư­ỡng kiến thức về quản lý và văn hóa kinh doanh du lịch cho tất cả đội ngũ lao động du lịch trên địa bàn…

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực du lịch nhằm góp phần từng bước chuyên nghiệp hóa nhân lực trong ngành du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, xây dựng hình ảnh điểm đến Quảng Bình an toàn, thân thiện, mến khách.

Quảng Bình có nhiều lợi thế để phát triển du lịch, là điểm đến du lịch nổi tiếng không chỉ đối với du khách trong nước mà còn với cả khách nước ngoài. Ngành Du lịch Quảng Bình trong những năm qua đã có sự tăng trưởng đáng kể, nâng cao vai trò, vị thế của du lịch trong phát triển kinh tế – xã hội của toàn tỉnh. Để hướng tới sự phát triển du lịch nhanh và bền vững trong tương lai thì phát triển nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định.

2. Tinh ủy Quảng Bình (2011), Báo cáo tổng thể Quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2025, ngày 12/01/2011, truy lục từ https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/quy-hoach-tong-the-phat-trien-du-lich-tinh-quang-binh-den-nam-2020-va-tam-nhin-den-nam-2025.htm.

ThS. Lê Đức Thọ

Thực Trạng Ngành Du Lịch Tại Việt Nam: Đầy Tiềm Năng Nhưng Thiếu Hụt Nguồn Nhân Lực Chất Lượng

Năm 2018 tiếp tục được đánh giá là một năm thành công của du lịch Việt Nam. Về tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế, Việt Nam hiện đang ở mức rất cao (21%), trong khi Thái Lan, Singapore, Malaysia đều có dấu hiệu chững lại…Tuy nhiên, hiện ngành du lịch Việt Nam vẫn đang phải đối đầu với một bài toán hết sức nan giải: Thiếu hụt nguồn nhân lực đạt chuẩn.

Những con số biết nói

Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam đều có sự tăng trưởng ổn định, bình quân tăng trên 15% cả về số lượng khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Năm 2018 được đánh giá là một năm tiếp tục thành công của du lịch Việt Nam khi đón nhận khoảng 15,6 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ trên 80 triệu lươtj khách nội địa, tổng thu đạt đến con số 620.000 tỷ đồng. Về tốc độ tăng trưởng khách quốc tế, Việt Nam hiện đang ở mức rất cao (21%), trong khi Thái Lan, Malaysia, Singapore đều có dấu hiệu chững lại. Đây là cơ hội tốt cho Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các quốc gia mạnh về du lịch trong khu vực.

Các chuyên gia nhận định, ngành du lịch, lữ hành Việt Nam năm 2019 hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng trưởng khi Việt Nam đang nổi lên là một điểm đến du lịch hấp dẫn trên thế giới. Tuy nhiên, Với tốc độ tăng trưởng du lịch như hiện nay, yêu cầu mỗi năm phải đào tạo thêm 25.000 lao động mới và phải đào tạo lại số lượng tương tự. Quy mô và chất lượng nhân lực đang là vấn đề lớn đối với ngành du lịch.

“Bài toán” nhân lực chưa có lời giải

Hiện tại, cả nước có trên 1,3 triệu lao động du lịch, chiếm khoảng 2,5% tổng lao động cả nước; trong đó chỉ có 42% được đào tạo về du lịch, 38% được đào tạo từ các ngành khác chuyển sang và khoảng 20% chưa qua đào tạo chính quy mà chỉ được huấn luyện tại chỗ. Chính vì thế, số lao động có chuyên môn, kỹ năng cao vừa thiếu, vừa yếu, nhưng số lao động chưa đáp ứng yêu cầu lại dư thừa.

Bà Trần Thị Việt Hương, Giám đốc Trung tâm điều hành hướng dẫn viên Việt Nam – Công ty Vietravel chia sẻ, trung tâm hiện có khoảng 110 hướng dẫn viên đang làm việc chính thức và hơn 1.000 hướng dẫn viên cộng tác.

Là đơn vị cung ứng nguồn nhân lực dẫn đầu trong toàn ngành, nhưng trung tâm cũng không tránh khỏi tình trạng thiếu người khi vào mùa cao điểm. Cùng tâm trạng này, đại diện Công ty cổ phần lữ hành quốc tế Thái Sơn Travel cho biết, trong những dịp cao điểm mùa du lịch tháng 5 đến tháng 8, tình trạng khan hiếm nhân lực diễn ra thường xuyên.

“Để lấp chỗ trống này, không riêng gì công ty chúng tôi, nhiều công ty lữ hành buộc phải thuê đội ngũ cộng tác viên tại các điểm đến trong tour du lịch hoặc thuê sinh viên theo mùa vụ”, bà Hương chia sẻ.

Cơ hội cho nhân lực được đào tạo bài bản

Với thực trạng đang rất “khát” nguồn nhân lực chất lượng cao như hiện nay, không quá khó để thấy rằng cơ hội việc làm của những học viên được đào tạo bài bản, chuyên môn là cực kỳ cao. Thạc sĩ Bùi Văn Thời, cán bộ tuyển sinh trường Đại Học Nguyễn Tất Thành,  cho biết triển vọng phát triển khối ngành này là rất mạnh. Theo thống kê của tổng cục Du Lịch, năm 2018 Việt Nam đón 15,5 triệu khách nước ngoài, trong nước đón hơn 80 triệu khách. Vì vậy, cần lực lượng lao động rất lớn làm việc

Thạc sĩ Bùi Văn Thời: triển vọng khối ngành du lịch phát triển rất mạnh

Luôn nắm bắt được xu thế, cùng đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm, tu nghiệp lâu năm ở nước ngoài, chương trình học bài bản, hiện đại, luôn tạo điều kiện cho học viên tiếp cận cái mới, Trường Trung Cấp Nguyễn Tất Thành tự tin là cơ sở cung cấp nguồn nhân lực trẻ với chất lượng cao, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng trong ngành, góp phần giải quyết “bài toán” nan giải cho ngành du lịch lữ hành Việt Nam.

****Tuyển sinh Trung cấp Du lịch lữ hành, mọi chi tiết liên hệ:

Địa chỉ: 27A Nguyễn Oanh, Phường 17, Quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh

Hotline: 090.686.6695

Email: nguyentatthanhtc@gmail.com

Website: http://www.tcntt.edu.vn

baodulich.net.vn

www.vnmedia.vn

vneconomy.vn

thanhnien.vn

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Hóa Du Lịch Mối Quan Hệ Trong Việc Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Việt Nam trên website Tuyensinhtdnceovn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!